Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hội thảo “Rà soát đánh giá các nội dung không tương thích giữa Luật đầu tư và các Luật khác có liên quan và kiến nghị bổ sung, sửa đổi”

06/08/2010 - 50 Lượt xem

PHẦN I: RÀ SOÁT ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN

I. Luật đầu tư và nghị định hướng dẫn thi hành

Thông qua việc xem xét, nghiên cứu các điều khoản của luật đầu tư và các nghị định hướng dẫn thi hành. Tổ công tác thi hành Luật đầu tư đã rút ra những nhận xét về tính chưa hợp lý của Luật, như: phạm vi điều chỉnh của Luật còn quá rộng và chưa cụ thể, chồng chéo lên phạm vi của một số luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Môi trường, Luật Đất đai, Luật Xây dựng…; khái niệm của dự án đầu tư chưa thật sự rõ ràng và cụ thể. Về khái niệm dự án đầu tư, Tổ công tác đã đưa ra những vấn đề nổi cộm sau đây:

Một là, không phân biệt dự án đầu tư xây dựng công trình và dự án đầu tư không xây dựng công trình.

Hai là, chưa xác định được và chưa quy định thống nhất nội dung khái niệm “dự án có vốn đầu tư nước ngoài” và “dự án đầu tư trong nước”.

Ba là, chưa xác định và chưa quy định rõ về “dự án đầu tư có điều kiện” cũng như các điều kiện đầu tư tương ứng đối với các dự án đó.

Bốn là, chưa xác định rõ nội dung và hình thức thể hiện của “dự án đầu tư” theo quy định của Luật Đầu tư.

2. Về hồ sơ, trình tự và thủ tục đầu tư theo quy định của luật Đầu tư.

Báo cáo của Tổ công tác cho thấy còn tồn tại không ít các vấn đề liên quan đến đăng ký và thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư trong nước và các dự án đầu tư nước ngoài.

Đối với dự án đầu tư trong nước còn tồn tại các vấn đề sau:

Một là, chưa có quy định về điều kiện để được đăng ký đối với loại dự án yêu cầu phải đăng ký: liệu Uỷ ban nhân dân (UBND), Ban quản lý (BQL) khu công nghiệp có được xét đến các quy hoạch (sử dụng đất đai, kết cấu hạ tầng, quy hoạch phát triển đô thị, giao thông...) để đồng ý hoặc từ chối dự án đầu tư.

Hai là, một số hồ sơ chưa rõ về nội dung và hình thức. Ví dụ: chưa có hướng dẫn thống nhất về hình thức và nội dung của báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư và ý nghĩa pháp lý của báo cáo này.

Ba là, không có tiêu chí cụ thể để thẩm tra các nội dung:

- Nhu cầu sử dụng đất

- Tiến độ thực hiện các dự án và giải pháp môi trường

Bốn là, lĩnh vực đầu tư có điều kiện áp dụng chung (không phân biệt trong và ngoài nước) quy định của Luật Đầu tư còn quá chung chung, chưa thể phân định được loại ngành, nghề thuộc diện đầu tư có điều kiện.

Đối với dự án đầu tu nước ngoài, bên cạnh các vấn đề tồn tại tương tự như với đầu tư trong nước, còn một số vấn đề sau:

(i) Vấn đề nảy sinh trong việc coi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD) đồng thời là giấy chứng nhận đầu tư (CNĐT). Về bản chất giấy ĐKKD là giấy chứng nhận sự gia đời của doanh nghiệp do cơ quan đăng ký kinh doanh ký theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên thẩm quyền ký này lại do UBND cấp tỉnh hoặc do BQL khu công nghiệp ký. Điều này đã gây không ít khó khăn cho cả các cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.

(ii) Một số nội dung chưa thật sự chính xác về mặt pháp lý trong nội dung ĐKKD đồng thời với đăng ký đầu tư (ĐKĐT).

(iii) Nội dung ĐKKD trong giấy CNĐT đồng thời là giấy chứng nhận ĐKKD không tương thích đáng kể so với nội dung của giấy chứng nhân về ĐKKD.

II. Sự không tương thích giữa Luật Đất đai và Luật Đầu tư.

Giữa Luật Đất đai và Luật Đầu tư còn rất nhiều điểm không tương thích với nhau. Theo tổ công tác còn tồn tại những vấn đề sau:

Một là, Luật Đất đai chia tổ chức, cá nhân được giao đất hoặc cho thuê đất thành nhiều loại trong đó liên quan đến đầu tư kinh doanh có:

- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân người Việt Nam.

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

- Tổ chức, các nhân người nước ngoài.

Trong khi đó Luật Đầu tư sử dụng các khái niệm “nhà đầu tư nước ngoài”, “nhà đầu tư trong nước”, “doanh nghiệp trong nước” và “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Hai là, có sự phân biệt về chế độ sử dụng đất tổ chức cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền lựa chọn phương thức giao đất hoặc thuê đất. Trong khi đó tổ chức, cá nhân người nước ngoài chỉ được sử dụng hình thức thuế đất đai mà thôi.

Ba là, Luật Đất đai yêu cầu kết quả của thủ tục đầu tư dưới hình thức phê duyệt dự án. Nhưng kết quả thủ tục đầu tư theo Luật Đầu tư hiện hành là rất khác nhau tuỳ thuộc vào dự án. Một số dự án không phải làm thủ tục đầu tư hoặc không phải thẩm tra, chấp thuận hay phê duyệt vể đầu tư. Do đó, kết quả không phải là dự án được phê duyệt mà là giấy chứng nhận đầu tư.

Như vậy, có khá nhiều sự không tương thích với quy mô và mức độ khá lớn giữa lớn giữa các quy định về đầu tư và quy định về đất đai liên quan đến đầu tư. Chế độ sử dụng đất khác nhau với các quyền và nghĩa vụ không giống nhau đối với các đối tượng sử dụng đất đã tạo nên bất ổn và không an toàn về pháp lý liên quan đến sử dụng đất trong quá trình phát triển, huy động thêm vốn, đa dạng hoá quy mô, ngành nghề kinh doanh. Đó cũng là yếu tố hạn chế tập trung và tích tụ vốn phát triển các doanh nghiệp Việt Nam.

III. Sự không tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật Môi trường, nghị định hướng dẫn thi hành.

Giữa Luật Đầu tư và Luật Môi trường cũng đang tồn tại nhiều những điểm không tương thích. Các điểm không tương thích này chủ yếu tập trung vào các vấn đề như khái niệm, phân loại dự án và về đánh giá tác động của môi trường.

Luật Môi trường quy định khá nhiều nội dung liên quan đến đầu tư và thủ tục đánh giá tác động môi trường đối với dự án đầu tư, trong khi đó Luật Đầu tư quy định không đáng kể nội dung liên quan đến môi trường, cụ thể là chỉ yêu cầu nhà đầu tư giải trình các giải pháp về môi trường đối với các dự án trên 300 tỷ đồng.

Luật Đầu tư không yêu cầu đánh giá hay cam kết bảo vệ môi trường trước và trong khi làm thủ tục hành chính về đầu tư. Ngược lại, Luật Môi trường đã quy định khá nhiều vấn đề liên quan đến đầu tư mà Luật Đầu tư không yêu cầu như: (i) Yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đối với dự án đầu tư đồng thời với lập báo cáo đánh giá tác động của môi trường. (ii) Đánh giá tác động của môi trường phải hoàn thành trước khi phê duyệt hoặc cấp phép đầu tư. (iii) Trong hồ sơ thẩm định báo các tác động của môi trường phải có báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc báo các về đầu tư.

Như vậy, quy định về trình tự thẩm định báo cáo đánh giá tác động của môi trường đã trái hẳn với quy định về thủ tục đầu tư.

IV. Sự không tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật Xây dựng, nghị định hướng dẫn thi hành.

Qua những phân tích và so sánh tổ công tác đã đưa ra một số điểm không tương thích giữa Luật Đầu tư và Luật Xây dựng và các nghị định liên quan sau:

(i) Về khái niệm, Luật Xây dựng có một số điểm khác so vơi Luật Đầu tư. Cụ thể là:

- Luật Xây dựng sử dụng khái niệm chủ đầu tư (chứ không phải nhà đầu tư), về cơ bản không phân biệt nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.

- Luật Xây dựng quy định rất rõ nội dung và hình thức thể hiện của dự án đầu tư gồm phần thuyết minh và thiết kế cơ sở không liên quan đến thủ tục hành chính của Luật Đầu tư.

- Dự án đầu tư xây dựng công trình được chia thành ba loại A, B, C

- Nội dung và hình thức của hầu hết các dự án là giống nhau chỉ khác nhau về thẩm quyền.

- Thủ tục xây dựng không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc khi nào.

- Theo Luật Xây dựng đối với những công trình xây dựng có quy mô lớn, trước khi lập dự án chủ đầu tư xây dựng công trình phải lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình để cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư. Luật Xây dựng không có quy định liên quan đến luật hiện hành về đầu tư. Hai thủ tục này là hoàn toàn giống nhau nhưng phải làm cả hai và độc lập với nhau.

Như vậy, qua quá trình rà soát  Tổ công tác về thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đã rút ra một số các nhận xét về sự không tương thích giữa Luật Đầu tư và các Luật khác có liên quan như: Không rõ ràng, không tương thích về khái niệm, phân tán về cơ quan có thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính có liên quan, một số loại hồ sơ không rõ nội dung, hình thức hoặc không còn phù hợp, không rõ hoặc trùng lặp về tiêu chí giải quyết thủ tục có liên quan, mâu thuẫn về thời điểm bắt đầu thực hiện thủ tục, trùng lặp về hồ sơ để thực hiện thủ tục, tiêu chí giải quyết các thủ tục trùng nhau (thủ tục trùng thủ tục).

PHẦN II: KIẾN NGHỊ BỔ SUNG

Sự khác biệt và không tương thích giữa các Luật và Nghị định hướng dẫn thi hành như trình bày ở trên đây đã gây ra những khó khăn, rủi ro và chi phí không cần thiết đối với cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp. Trên cơ sở nhận thức được những vấn đề đó Tổ công tác thi hành luật đầu tư đã đưa ra các kiến nghị bổ sung, sửa đổi như sau:

I. Kiến nghị về nội dung hoàn thiện trình tự, thủ tục hành chính về đầu tư.

1. Về khái niệm và phân loại dự án.

- Thống nhất khái niệm coi đầu tư là một phần của hoạt động kinh doanh hoặc đầu tư là cách để thực hiện hoạt động kinh doanh, không tách rời giữa đầu tư và kinh doanh về bản chất pháp lý và kinh tế.

- Đối với những ngành nghề kinh doanh người đầu tư nước ngoài bị hạn chế sở hữu, hạn chế về phạm vi kinh doanh... thì những điều kiện về quyền kinh doanh được xem xét ngay khi đăng ký kinh doanh.

- Về dự án đầu tư thì nên thống nhất khái niệm theo hướng: đầu tư gồm đầu tư xây dựng công trình và đầu tư không xây dựng công trình. Dự án đầu tư xây dựng công trình nên theo 3 nhóm A, B và C (C<15 tỷ, B: 15-30 tỷ, A>300 tỷ) theo pháp Luật Xây dựng.

- Phân loại theo sở hữu thì nên thống nhất: Dự án đầu tư trong nước hơn 51% sở hữu trong nước, dưới 51% là dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Dự án đầu tư nhà nước bằng ngân sách hoặc do doanh nghiệp nhà nước 100% vốn sở hữu.

- Quy trình và thủ tục đầu tư nên chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình.

2. Ý nghĩa pháp lý của giấy CNĐT và đơn giản hoá thủ tục đầu tư.

(i) Giấy CNĐT là xác nhận chủ trương đầu tư cụ thể đối với dự án đầu tư. Phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.

(ii) Dự án đầu tư có thể thực hiện ở cả vùng chưa có quy hoạch

- Trong khu công nghiệp đã có quy hoạch chỉ trao quyền thực hiện dự án đầu tư cụ thể nhà đầu tư vẫn phải làm các thủ tục khác. Thẩm quyền là UBND/ BQL khu công nghiệp.

- Ngoài khu công nghiệp đã có đất không yêu cầu giấy CNĐT làm ngay đánh giá tác động của môi trường và thủ tục xây dựng.

- Ngoài khu công nghiệp chưa có đất: Xin chủ trương địa điểm, giao/cho thuê đất, xin phép xây dựng.

(iii) Về thẩm quyền chủ trương đầu tư: Dự án nhóm A: Thủ tướng, Nhóm B: UBND Tỉnh, C: Huyện.

3. Đối với đánh giá tác động môi trường

(i) Có thể tiến hành ngay sau khi có chủ trương đầu tư, và trước khi có xem xét cụ thể về giao đất

(ii) Không nhất thiết phải có báo cáo nghiên cứu khả thi.

4. Đối với giao đất hoặc cho thuê đất

(i) Nên thống nhất chế độ cho thuê đất hoặc giao đất thống nhất đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

(ii) Hồ sơ xin giao đất hoặc thuê đất nên có nội dung

- Báo cáo giải trình kinh tế - xã hội của dự án đầu tư và nhu cầu về sử dụng đất

- Báo cáo giải trình năng lực và kinh nghiệm của nhà đầu tư

- Kế hoạch về vốn thực hiện dự án đầu tư

- Kế hoạch chi tiết triển khai thực hiện dự án và cam kết thực hiện đúng tiến độ

- Dự kiến kế hoạch đền bù giải phóng mặt bằng

(iii) Điều kiện giao hoặc cho thuê đất

- Dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch sự dụng đất.

- Năng lực của nhà đầu tư phù hợp với dự án về quy mô vốn của dự án

- Phương thức và mức đền bù hợp.

- Mức độ đóng góp của dự án đầu tư vào phát triển kinh tế xã hội địa phương.

- Đạt yêu cầu bảo vệ môi trường.

5. Đối với thiết kế cơ sở và giấy phép xây dựng.

(i) Phân cấp toàn diện thẩm định thiết kế cơ sở về cho chính quyền địa phương cấp tỉnh.

(ii) Các bước thủ tục với dự án xây dựng công trình cho chủ đầu tư chưa có đất

- Xin chủ trương đầu tư hoặc chủ trương về địa điểm đầu tư.

- Xin đăng ký hoặc thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư.

- Đánh giá tác động của môi trường.

- Xin thuê đất, giao đất

- Thẩm định thiết kế cơ sở hoặc xin phép xây dựng.

6. Đối với dự án đầu tư xây dựng trong khu công nghiệp

Thủ tục có thể thực hiện như sau.

- Xin cấp giấy CNĐT

- Ký hợp đồng thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

- Thủ tục cấp phép xây dựng

7. Tách bạch giữa GCNĐT và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Tách biệt giấy CNĐT và giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp mới thành lập có sở hữu nước ngoài trên 49%.

II. Kiến nghị về ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi các văn bản.

Để chuyển được nội dung của 7 kiến nghị trên thành quy phạm pháp luật thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Theo tổ công tác thì cần bổ sung sửa đổi một số văn bản pháp luật sau:

1. Ban hành thông tư hoặc nghị định bổ sung, sửa đổi và hợp lý hoá các biểu mẫu liên quan đế đăng ký đầu tư và đăng ký kinh doanh.

2. Các phương án xử lý nghị định liên quan đến đầu tư: (có 2 phương án)

- Nghiên cứu, soạn thảo ban hành nghị định sửa đổi Nghị định số 108/2006/NĐ - CP trong đó giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến đầu tư gồm cả thủ tục hành chính về môi trường, giao đất, cho thuê đất và xây dựng liên quan đến đầu tư.

- Phương án thứ hai là tách các nội dung thành hai nghị định. Nghị định thứ nhất sửa đổi bổ sung nghị định 108/2006/NĐ-CP. Nội dung nghị định này tập trung hướng dẫn thực hiện những vấn đề của Luật Đầu tư không liên quan đến các Luật khác. Còn nghị định thứ hai hướng dẫn thực hiện các vấn đề liên ngành.

3. Nghiên cứu, tổng kết kiến nghị sửa đổi bổ sung Luật đầu tư và sửa đổi một số điều liên quan đến đầu tư quy định tại các luật liên quan.

PHẦN III: CÁC Ý KIẾN THẢO LUẬN

Tham dự hội thảo “Rà soát đánh giá các nội dung không tương thích giữa Luật Đầu tư và các Luật khác có liên quan và kiến nghị bổ sung sửa đổi” có sự tham gia của các Bộ, Sở, Ngành liên quan. Tại buổi hội thảo các đại biểu có những ý kiến đóng góp xuất phát từ thực tế thực hiện của các địa phương. Trong đó nổi bất lên các ý kiến của đại diện Bộ Công thương, đại diện Sở Kế hoạch Đầu tư Hải Phòng, Hà Tây, Thái Nguyên, Hà Nội… Các ý kiến này chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:

1. Khái niệm còn chưa rõ ràng cụ thể trong Luật Đầu tư, và giữa luật Đầu tư với các Luật có liên quan. Sự mập mờ về khái niệm dễ dẫn đến những sự áp dụng không đúng hoặc không giống nhau giữa các địa phương như:

a. Khái niệm “dự án đầu tư”.

b. Làm rõ khái niệm thế nào là dự án đầu tư có vốn nước ngoài.

c. Làm rõ khái niệm “Đầu tư có điều kiện”.

2. Sự cần thiết của việc tách bạch giữa giấy CNĐT và giấy ĐKKD.

3. Thủ tục đăng ký kinh doanh, trình tự thủ tục đăng ký. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng nên đưa giấy CNĐT lên đầu tiên.

4. Các vấn đề về “đánh giá tác động của môi trường”.

5. Các kiến nghị về sửa đổi các văn bản luật và nghị định hướng dẫn thi hành như về nội dung chưa tương thích và thời điểm sửa đổi. Đề nghị xây dựng “Sổ tay hướng dẫn” thi hành nhằm giải quyết những điểm không tương thích giữa các luật.

Kết Luận

Từ báo cáo của tổ công tác về thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư và các ý kiến đóng góp của các đại biểu. Hội thảo đã nhất trí về một số điểm không tương thích giữa Luật đầu tư và các văn bản Luật khác có liên quan. Trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: sự không thống nhất về khái niệm và thuật ngữ, vấn đề chồng chéo về thủ tục đăng ký, đầu tư thực hiện đúng theo luật này thì lại vi phạm vào luật khác, vấn đề về giấy chứng nhận ĐKKD và giấy CNĐT.. Tại hội thảo TS. Đinh Văn Ân - Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc sửa đổi các văn bản pháp luật cho phù hợp với thực tiễn. Theo đánh giá của các đại biểu tham dự hội thảo đây là một hội thảo có ý nghĩa to lớn trong việc nhận dạng các vấn đề còn tồn tại và mong muốn có những sự điều chỉnh cần thiết nhằm tránh tình trạng chồng chéo, dẫm chân lên nhau của các văn bản pháp luật và giảm bớt sự lúng túng cho địa phương, nhà đầu tư trong quá trình thực hiện.


Nguồn: VNEP, tháng 01/2008.