Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin mới

<font size=2><strong>Tháng 01/2008</strong></font>

06/08/2010 - 28 Lượt xem

I- Tình hình kinh tế trong tháng 01/2008 có những điểm đáng chú ý sau đây:

- Diễn biến thị trường vẫn hết sức sôi động và phức tạp. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tiếp tục tăng mạnh trong tháng 1: 2.38%. Điều này đã báo động về một năm với những diễn biến phức tạp của chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam. Trong năm 2008, Chính phủ tiếp tục mục tiêu kiềm chế tốc độ tăng của CPI thấp hơn tăng trưởng kinh tế. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc). Sự sôi động của thị trường bán lẻ Việt Nam là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên nó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ về sự cạnh tranh khốc liệt với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới đặc biệt khi thời điểm 01/01/2009 đang tới.

- Tháng 1/2008 chứng kiến sự leo lang của giá cả và sự sôi động của thị trường Bất động sản (BĐS) do các nguyên nhân như: Việt Nam đã có được sự tăng trưởng cao và bền vững trong vòng 10 năm trở lại đây và đã chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam có một cơ cấu dân số trẻ cao. Tuy nhiên một nguyên nhân rất đáng được chú ý tới đó là sự thiếu minh bạch về quản lý BĐS và thông tin trên thị trường BĐS, gây nhiều khó khăn, phức tạp cho cả cơ quan quản lý và người dân.

- Thị trường chứng khoán đã suy giảm đến mức làm bất ngờ các nhà quản lý và gây sững sờ các nhà đầu tư, và chỉ đế cuối tháng mới có dấu hiệu hồi phục. Đây là kết quả do tác động của nhiều yếu tố: lạm phát ở mức hai con số và chưa có tín hiệu dừng trong năm 2008, đồng nội tệ tăng giá góp phần làm tăng nhập siêu trong khi đó nguồn ngọai tệ vẫn tiếp tục chảy vào với cường độ mạnh nên để tránh lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đồng thời thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để thu hút lại một phần tiền đồng, các công ty niêm yết cũng bắt đầu tranh thủ sức nóng của thị trường để phát hành tăng vốn đã thu hút một lượng tiền lớn của các nhà đầu tư. Những tín hiệu phát ra từ các cơ quan quản lý nhà nước như hoãn lịch IPO, lùi thời gian thu thuế chuyển nhượng chứng khoán, giảm nhiệt thị trường bất động sản, hỗ trợ thúc đẩy việc chuyển đổi ngoại tệ sang tiền Việt, hoãn lịch IPO, khuyến khích thành lập quỹ đầu tư tư nhận, đề xuất thay đổi Chỉ thị 03… dường như chưa có đủ hiệu lực đối với thị trường.

- Nguồn nhân lực đang là vấn đề tồn tại nhiều bức xúc trong thời gian gần đây. Dự báo cuộc chạy đua cung - cầu nhân lực trong nước sẽ càng căng thẳng hơn trong năm 2008 và cầu được dự đoán sẽ vượt xa khả năng cung ứng. Sau một năm gia nhập WTO, thị trường lao động ngày càng nóng bỏng, đặc biệt trong các ngành dịch vụ tài chính; dịch vụ tư vấn, pháp lý; bất động sản; công nghệ thông tin và viễn thông... kéo theo sự cạnh tranh giữa các Cty trong nước và nước ngoài ngày càng gay gắt. Bức tranh xuất khẩu lao động còn nhiều khoảng sáng tối đan xen. Năm 2008, các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống sẽ tiếp tục khó khăn trong khi các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Hoa Kỳ và Úc lại vẫn eo hẹp.

- Trong bức tranh sáng của nền kinh tế nước ta năm qua, nhập khẩu và giá tiêu dùng cùng “đua nhau” tăng đại nhảy vọt là hai “điểm tối” nhất. Nhập siêu trong năm 2007 tăng đột biến là do ba yếu tố: gia tăng mạnh đầu tư, sốt nóng giá nguyên liệu thế giới và XK một loạt mặt hàng chủ yếu của nước ta đã đạt tới mức đỉnh về khối lượng.

- Tháng 1/2008 đánh dấu cột mốc quan trọng: tròn một năm Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sau một năm chính thức được kết nạp vào WTO, kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ: đạt 8,5% - mức tăng cao nhất trong 10 năm qua với kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ, tăng 20,5% so với năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kỷ lục, ước hơn 20 tỷ USD. Tuy vậy, WTO không phải là liều “thuốc thần” cho các vấn đề kinh tế - xã hội của Việt Nam. Để vượt qua thách thức và những cạm bẫy đối với tính bền vững của quá trình phát triển, cần xây dựng và thực hiện triệt để chương trình hành động tập trung giải quyết các yêu cầu về năng lực quản trị nhà nước, xây dựng hạ tầng cơ sở, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, nguồn nhân lực và các vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn...

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa kỷ niệm 20 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Chưa bao giờ nước ta đứng trước cơ hội thuận lợi như hiện nay trong vệc thu hút FDI với hàng chục dự án có số vốn hàng tỷ USD đang được chờ cấp phép trong năm 2008. Tuy nhiên, câu chuyện về FDI sau 20 năm còn ẩn trong đó những bài học cần được nghiên cứu kỹ hơn, khi nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng và chịu ảnh hưởng nhiều từ những biến động của kinh tế thế giới.

- Hội nghị quốc tế về kinh tế đối ngoại 2008 diễn ra tại Hà Nội trong 2 ngày 8 – 9/1/2008 là diễn đàn quan trọng, tiên phong trong năm 2008 để các nhà lãnh đạo DN có cơ hội gặp gỡ trao đổi với các nhà hoạch định chính sách VN về lộ trình cải cách, và thảo luận những vấn đề kinh tế trọng yếu đang được DN và nhà đầu tư quan tâm.

II - Các tin bài cụ thể

1. Nhận diện kinh tế Việt Nam 2007

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp, 03/01/2008 – Minh Giác

Theo nhãn quan của tác giả, năm 2007 kết thúc với một số điểm nổi bật: FDI tăng mạnh, ODA tiếp tục bứt phá, nhập siêu vượt 10 tỷ USD, đẩy mạnh cải cách hành chính, cùng với các vấn đề thiên tai, lạm phát và tăng giá.

Trong lĩnh vực FDI, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào VN năm 2007 đã vượt 15 tỷ USD, vượt 15% kế hoạch dự kiến. Công nghiệp vẫn đang là ngành thu hút lượng vốn lớn nhất, tiếp đến là các ngành dịch vụ. Các doanh nghiệp FDI thu hút thêm 13.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1,25 triệu người. Việc đẩy nhanh tốc độ cải cách hành chính, tiến hành phương án một cửa trong cấp phép đầu tư, thành lập DN... cộng với việc gia nhập WTO đã giúp môi trường đầu tư ở VN trở nên hấp dẫn hơn.

Kết thúc năm 2007, mức vốn ODA các nhà tài trợ cam kết dành cho VN trong năm 2008 đạt mức kỷ lục là 5,426 tỷ USD, tăng gần 1 tỷ USD so với năm 2007. Các nhà tài trợ đều đánh giá cao việc Chính phủ VN đưa ra những chương trình kế hoạch ứng phó sự tác động của biến đổi khí hậu và “đây sẽ là cơ sở để cộng đồng quốc tế có thể hỗ trợ cho VN trong lĩnh vực này”.

Kim ngạch XK năm 2007 được cải thiện. Tính chung trong năm 2007, kim ngạch XK đạt khoảng 47 tỷ USD, tăng 8% so với 2006. Các mặt hàng khác như thép, linh kiện điện tử nhập khẩu... cũng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.

2007 được đánh giá là năm thiên tai khắc nghiệt. Lạm phát và tăng giá cũng gây những tác hại lớn đến kết quả tăng trưởng của kinh tế. Trong khi đó, còn tồn tại những yếu tố sẽ tiếp tục cản trở sự phát triển kinh tế một cách bền vững và hiệu quả, như bất cập của hạ tầng bất động sản, cụ thể là thiếu minh bạch thông tin; chính sách giáo dục đào tạo chưa hiệu quả khiến thị trường lao động luôn luôn mất cân đối và thiếu lao động ở tất cả các trình độ từ thấp đến cao.

Tác giả dự báo năm 2008 Việt Nam sẽ cơ bản thực hiện xong các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2006-2010. Thu nhập bình quân đầu người của VN sẽ đạt 960 USD, và lên mức 1.100 USD vào năm 2009. Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài trong năm 2008 sẽ là 14,5-15 tỷ USD.

2. Việt Nam trong nhãn quan nhà đầu tư: Ngôi sao đang lên!

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp, 09/01/2008 – Quốc Anh

Tại Hội nghị quốc tế về kinh tế đối ngoại 2008 diễn ra tại Hà Nội trong 2 ngày 8 – 9/1/2008, đa số các nhà đầu tư đều tin tưởng vào sự phát triển của nền kinh tế VN như một “ngôi sao đang lên” - đồng nghĩa với việc cơ hội đầu tư vào VN của các nhà đầu tư ngày càng lớn. Giới đầu tư nhận định Việt Nam đã trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống sản xuất xuyên châu Á và sẽ là một điển hình thành công về kinh tế ở châu Á do có rất nhiều nhân tố tích cực để duy trì tốc độ tăng trưởng tốt: nguồn nhân lực trẻ và đang phát triển, chi phí nhân công thấp và trình độ công nghệ cũng ngày càng cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang tiếp tục cải cách hành chính, cải cách, mở cửa và hoàn thiện chính sách trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng và cổ phần hoá các DNNN.

Tuy vậy, các nhà đầu tư cũng nhân định bức tranh đầu tư của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những mảng tối là những thách thức khá lớn: tỷ lệ lạm phát cao, nền tảng hạ tầng cơ sở chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được mong mỏi của các doanh nghiệp nước ngoài; nhân lực có chất lượng cao còn thiếu; môi trường pháp lý chưa hoàn thiện; tham nhũng cũng là một vấn đề cần chú ý.

3. FDI: 20 năm và những bài học

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 28/01/2008 - Từ Nguyên

Tác giả bài báo nhìn lại kết quả thu hút FDI của Việt Nam và rút ra 4 bài học về thu hút FDI sau 20 năm đổi mới tại Việt Nam. Bài học thứ nhất, đó chính là cơ hội. Trong những năm qua, đã có rất nhiều cơ hội để chúng ta nhìn thấy và nắm bắt nhằm làm lợi cho đất nước. Nổi bật là các sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU và bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 xảy ra khi Việt Nam vẫn nằm ngoài vòng xoáy của khủng hoảng cũng đã tạo ra một cơ hội cho Việt Nam phát huy lợi thế so sánh để thu hút FDI. Tuy nhiên, tác giả thẳng thắn thừa nhận chúng ta vẫn bị động nên không không biến được cơ hội thành hiện thực.

Bài học thứ hai là ba mối quan hệ lợi ích. Đó là lợi ích của nước ta và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài, lợi ích giữa các bên liên doanh, và mối quan hệ lợi ích giữa người sử dụng và người lao động. Để giải quyết hài hoà lợi ích của các bên liên quan trên cơ sở bảo đảm lợi ích chính đáng của đất nước, tác giả chỉ rõ: cần khắc phục tình trạng gây phiền hà cho nhà đầu tư, một số địa phương thực hiện các chính sách vượt quá khuôn khổ pháp luật nhà nước, gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia; nâng cao năng lực của bên đại diện bên Việt Nam để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình trước đối tác nước ngoài; hướng dẫn người sử dụng lao động, nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ, tôn trọng văn hóa ứng xử, tập quán của người Việt Nam để từ đó giáo dục, tổ chức người lao động làm việc có kỷ luật, năng suất và đảm bảo công bằng.

Bài học thứ ba, đó là lợi thế so sánh. Lực lượng lao động đồi dào và tiền công thấp đã không còn là thế mạnh của Việt Nam mà cần nguồn nhân lực có tay nghề cao, kỹ năng lao động, đội ngũ nhà quản trị doanh nghiệp giỏi. Để giải quyết vấn đề này, cần một hệ giải pháp đồng bộ từ chủ trương, chính sách của Chính phủ đến vốn đầu tư cho giáo dục đào tạo...

Bài học thứ tư, đó là chính sách. Cần phải nhìn nhận nghiêm túc mặt trái của “cuộc chiến chào mời đầu tư” của các địa phương để tránh ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội. Chính quyền địa phương cần tập trung vào công tác chuẩn bị trước dự án đầu tư bao gồm mặt bằng đất đai, điện, nước, đường giao thông, dịch vụ, khả năng phát triển công nghiệp phụ trợ… và ban hành “cẩm nang đầu tư nước ngoài” để nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết. Cuối cùng, cần nhanh chóng thực hiện chính phủ điện tử, đầu tư nguồn nhân lực, vốn để thiết lập các trung tâm điều hành tại Cục Đầu tư nước ngoài, sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý được nối mạng với doanh nghiệp FDI để cập nhật thông tin và giải quyết các vấn đề kịp thời, hiệu quả.

4.

WTO: “Thuốc thần” hay “cạm bẫy”?

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 10/01/2007 - Trương Đình Tuyển

Trước hết, tác giả khẳng định WTO không là "thuốc thần", cũng không phải "cạm bẫy ". Gia nhập WTO chỉ là tiền đề, là điều kiện phát triển của đất nước trong nền kinh tế thế giới đang được toàn cầu hoá một cách sâu sắc chứ không phải là điều kiện đủ cho mọi thành công của một quốc gia trong cạnh tranh quốc tế. Cùng với những cơ hội, vai trò là thành viên WTO cũng đem đến những thách thức cho nền kinh tế. Có tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức hay không là tuỳ thuộc vào nỗ lực của Nhà nước, doanh nghiệp và mọi người dân.

Tăng thu hút đầu tư nước ngoài là cơ hội lớn nhất mà chúng ta có được sau một năm gia nhập WTO. Nhờ ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các đạo luật khác để phục vụ đàm phán gia nhập, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã thông thoáng, minh bạch, và không phân biệt đối xử; các yếu tố kinh tế thị trường ngày càng hình thành đồng bộ. Sự kết nối giữa nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế các thành viên khác trở nên chặt chẽ hơn, tạo ra thị trương rộng lớn cho đầu tư và kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Song, tác giả cũng nhận thấy bức tranh kinh tế sáng sủa của năm 2007 đã xuất hiện những mảng xám: nhập siêu tăng cao và giá cả tăng cao. Điều này đặt ra những thách thức cho quản lí vĩ mô trong đó có công tác dự báo và khả năng phản ứng chính sách. Thay cho lời kết, tác giả khuyến nghị năm 2008 cần tiếp thụ hết và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, khống chế được lạm phát mà không hi sinh tiềm năng tăng trưởng của đất nước bằng cách: tăng năng lực quản trị nhà nước; tập trung đẩy nhanh xây dựng một số công trình giao thông, năng lượng thiết yếu đi đôi với việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án đã có quyết định đầu tư; đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; lựa chọn đúng chiến lược cải cách giáo dục, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho nền kinh tế; xây dựng đề án phát triển công nghiệp hỗ trợ; tập trung cao hơn cho nông nghiệp và nông thôn.

5. Nông nghiệp sau một năm vào WTO

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 15/01/2008 – Hồ Khánh Thiện

Sau một năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ hội cho người nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường nông sản thế giới với kim ngạch buôn bán gần 600 tỷ USD/năm đã rộng mở hơn trước. Song, thực tế là một năm qua, nước ta phải từng bước mở cửa thị trường nông sản trong điều kiện không ít mặt hàng không có sức cạnh tranh. Kinh tế nông thôn phần lớn đang phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm, thiếu nguyên liệu và sử dụng công nghệ lạc hậu, một ví dụ điển hình tác giả đưa ra là ngành mía đường. Thách thức thứ hai là sản xuất nông nghiệp vẫn rất manh mún; công nghệ chế biến, bảo quản quá thô sơ, chưa kết nối được giữa người sản xuất và tiêu thụ, vì vậy hàng nông sản xuất khẩu của VN đạt hiệu quả thấp, không đáp ứng được những yêu cầu trong giao thương với thị trường thế giới. 90% sản phẩm nông nghiệp được bán ra ở dạng thô. Một thách thức khác nữa là các nước giàu thuộc WTO vẫn tìm cách duy trì trợ cấp ngành nông nghiệp của họ; việc thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn ở nước ta lại tồn tại nhiều bất cập. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong thời gian qua vừa quá nhỏ, vừa chắp vá, phân tán.

Trước thực trạng nêu trên, tác giả đưa ra ý kiến “cần vẽ lại bản đồ nông nghiệp”. Đa số người dân Việt Nam vẫn sống dựa vào nông nghiệp, trong khi đó đất canh tác đang ngày càng bị thu hẹp lại. Nhu cầu tiêu thụ nông sản tại các thị trường trong WTO là rất lớn. Bài toán được đặt ra về hoạch định chính sách hướng tới đạt hiệu quả kinh tế cao trong sử dụng đất là: có nên tiếp tục “xẻ thịt” những vùng đồng bằng phì nhiêu để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị hay là bảo vệ tối đa quỹ đất nông nghiệp hiếm hoi để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước? Trước mắt, tác giả khuyến nghị cần định vị cây trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp hợp lý, tập trung đầu tư lớn vào nông nghiệp và nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp chế biến... để tạo thế đứng cho nông sản “ Made in Vietnam” trong điều kiện hội nhập.

6. GDP của Việt Nam theo cân bằng sức mua giảm 30%

Nguồn: Vietnamnet, 24/12/2007 - Nguyễn Xuân Thành, Bùi Văn

Bài báo đưa ra con số gây bất ngờ là GDP của Việt Nam năm 2005 tính bằng PPP đã được điều chỉnh giảm 30%, từ 255,6 tỷ USD xuống còn 178,1 tỷ USD. Tương ứng, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo PPP năm 2005 là 2.142 USD thay vì 3.076 USD như đã công bố.

Lý giải cho điều này, tác giả đưa ra ba cách để nhìn nhận về GDP của mỗi nền kinh tế. Cách thứ nhất là dùng đồng tiền trong nước để biết quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người và tính toán tốc độ tăng trưởng của năm sau so với năm trước. Nhưng các số liệu này không thể dùng để so sánh giữa với các nền kinh tế dùng các loại tiền khác nhau. Cách thứ hai, quy đổi GDP và GDP bình quân đầu người sang đô-la Mỹ, dựa trên tỷ giá hối đoái thị trường. Cách thứ ba, đó là quy đổi đồng đô-la sang sức mua tương đương (PPP), sử dụng một “rổ” hàng hóa và dịch vụ làm đại diện.

Vì vậy, để so sánh trên cơ sở ngang bằng sức mua của đồng đô-la, GDP của Việt Nam phải được điều chỉnh tăng lên 3,4 lần. Kết quả là năm 2005, thu nhập bình quân đầu người của ta tính theo tỷ giá hối đoái là 637 USD, còn tính theo PPP là 2.142 USD.

Việc điều chỉnh cho phép nhìn nhận so sánh chính xác hơn vị thế của chúng ta trên thế giới. Thứ nhất, việc điều chỉnh của Ngân hàng Thế giới cho thấy mặt bằng giá cả của Việt Nam không phải là quá rẻ như ước tính trước đây. Thứ hai, khoảng cách của chúng ta với các nước giàu đã giãn xa hơn. Thứ ba, do thước đo PPP được sử dụng phổ biến trên thế giới để so sánh và xếp hạng thu nhập bình quân đầu người, nên việc một quốc gia được xếp là nước nghèo càng lâu thì quốc gia đó càng có nhiều khả năng tiếp tục nhận được vốn vay ưu đãi từ các tổ chức phát triển, cũng như được “ưu tiên” hơn

7. Báo động một năm lạm phát cao

Nguồn: Thanh Niên, 30/01/2008 - Ngọc Minh

Từ tốc độ tăng giá tiêu dùng tháng 1 do Tổng cục Thống kê công bố (tăng 2,38% so với tháng 12.2007 và tăng 14,11% so với tháng 1 cùng kỳ năm trước), tác giả rút ra một số nhận xét. Trước hết, chưa thể chủ quan, thỏa mãn với tốc độ tăng giá tiêu dùng hiện nay. Để chống lạm phát, Nhà nước đã phải tiếp tục áp dụng nhiều biện pháp kiềm chế việc tăng giá, thậm chí không tăng những loại hàng hóa, dịch vụ đã bị kiềm chế từ những năm trước. Thứ hai, tốc độ tăng giá tiêu dùng tháng 1 năm nay thuộc loại khá cao so với tốc độ tăng giá của tháng 1 cùng kỳ trong các năm trước, cao nhất tính từ năm 1996 đến nay. Điều này cảnh báo giá 2008 sẽ tăng khá cao. Thứ ba, tốc độ tăng giá so với cùng kỳ năm trước của tháng 1.2008 cũng báo hiệu tốc độ tăng giá bình quân năm nay so với bình quân năm trước sẽ cao hơn tốc độ tăng GDP! Thứ tư, trong 10 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, thì những nhóm có liên quan trực tiếp đến nhu yếu phẩm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi tiêu cho đời sống của người tiêu dùng đều tăng cao hơn các nhóm hàng hóa, dịch vụ khác, càng gây tác động bất lợi đối với người tiêu dùng có thu nhập thấp và người nghèo.

8. Thị trường tài chính Việt Nam: Vẫn là "điểm đến" dài hạn…

Nguồn: Thời báo Ngân hàng, 29/01/2008 - Minh Ngọc.

Theo đánh gia của các chuyên gia Việt Nam là một trong 5 thị trường đầu tiên để đầu tư và đây sẽ là một nơi hấp dẫn các nhà đầu tư trong khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có dấu hiệu trầm trọng hơn. Do Việt Nam có được sự ổn định về chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục cộng với một tỷ lệ dân số trẻ là khá cao.

Bài báo đã chỉ ra 3 sức hút chính đầu tư vào Việt Nam. Thứ nhất, còn hơn 1500 doanh nghiệp nhà nước sẽ cổ phần hóa. Thứ hai, việc Chính Phủ đa dạng hóa và giảm bớt một số khoản đầu tư của mình sẽ tạo ra một cơ hội lớn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng. Thứ ba, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đang có những bước tiến rất lớn trong một thị trường phát triển nhanh do đó họ cần tiền, cần đối tác chiến lược để phát triển.

Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề về lạm phát, vấn đề về cổ phần hóa các doanh nghiệp - việc định giá quá cao sẽ ảnh hưởng tới đến việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Tỷ lệ room 30% đối với lĩnh vực ngân hàng và 49% đối với các lĩnh vực khác cũng là một rào cản bởi các quỹ lớn đòi hỏi các dự án đầu tư có nguồn vốn lớn.

9. Thử “bắt bệnh” thị trường chứng khoán

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 15/01/2008 - Hoàng Xuân Quyến, Vũ Phương Thanh

Theo tác giả bài báo Thị trường chứng khoán Việt Nam sụt giảm là do một số nguyên nhân như: Thứ nhất, Chỉ thị 03 ban hành vừa không đúng thời điểm vừa không triệt để ở chỗ chỉ hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán nhưng thả lỏng cho vay đầu tư bất động sản và cho vay thương mại vô hình đã đẩy luồng tiền từ thị trường chứng khoán chuyển sang thị trường bất động sản và vàng. Thứ hai, các ngân hàng thương mại một mặt phải chấp hành Chỉ thị 03, mặt khác vì mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận đã đẩy tốc độ tăng trưởng tín dụng lên cao chưa từng có. Thứ ba, giá cổ phiếu của các công ty niêm yết đã đi quá xa giá trị căn bản trong một thời gian dài trước đây nên xu hướng quay trở lại giá trị căn bản sớm muộn sẽ xuất hiện. Hiện tại, lượng cung của tiền trong lưu thông đã đi vào thị trường bất động sản quá lớn, nên thị trường chứng khoán rất khó “hút” lại nguồn vốn này.

Việc thị trường chứng khoán đã sut giảm nghiêm trọng cho thấy các tín hiệu về những giải pháp của Nhà nước dường như chưa có mấy tác động. Có hai nguyên nhân cơ bản nhất là niềm tin của nhà đầu tư bị suy giảm và luồng tiền đầu tư vào chứng khoán đang dần cạn kiệt. Theo tác giả, nhóm các giải pháp mà Nhà nước đưa ra nhằm đánh thức thị trường tuy là cần thiết nhưng ít có hiệu lực ngắn hạn, vì chưa đụng đến đúng căn bệnh suy thoái và giải pháp có tính cấp bách hiện nay. Một mặt Nhà nước nên nhanh chóng vừa tăng cung tiền, vừa nới lỏng Chỉ thị 03 để tăng nguồn tiền cho vay đầu tư chứng khoán, mặt khác, cần phải quy định chặt hơn với việc cho vay tiêu dùng và đầu tư bất động sản của các cá nhân.

10. Bán lẻ Việt Nam: Bắt tay hay sống leo lắt?

Nguồn: Vietnamnet, 24/01/2008 – Hà Yến

Bài báo đề cập hai vấn đề: (i) xác lập chỗ đứng của các doanh nghiệp bán lẻ Việt nam tại thị trường trong nước và trên thế giới, (ii) những biện pháp để các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tồn tại, phát triển khỏe mạnh.

Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc). Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỷ USD mỗi năm, dự kiến tăng trưởng sức mua trong nước luôn đạt trên 20%. Theo nhận xét của các chuyên gia thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ rất sôi động trong thời gian tới đặc biệt khi thời điểm 01/01/2009 đang đến gần.

Rõ ràng là nếu các doanh nghiệp không liên kết, hợp tác để cùng phát triển thì các tập đoàn nước ngoài sẽ thay thế vị trí của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên cho tới thời điểm này sự liên kết là rất yếu ớt và hiếm hoi. Thêm vào đó, trong lĩnh vực bán lẻ, chúng ta đang thiếu hoạt động của hệ thống hậu cần - khâu hỗ trợ cho chuỗi bán hàng cuối cùng của hệ thống bán lẻ và các đại siêu thị ở các đô thị lớn. Các DN bán lẻ cần liên kết để đủ sức tiếp quản các mặt bằng lớn, với sự tập trung vốn và nguồn nhân lực cao.

Bài báo cũng chỉ rõ những tồn tại khác của hệ thống bán lẻ Việt Nam như: Thứ nhất, 70% hàng hoá tại các siêu thị hiện là hàng Việt Nam, song sản xuất của chúng ta không đủ lớn, năng suất thấp nên không đủ cung ứng. Hơn nữa, hệ thống phân phối từ trang trại đến kho dự trữ, sơ chế, bán lẻ... bị cắt khúc, phân tán, dẫn tới chi phí đầu vào cao. Thứ hai, hệ thống phân phối trong nước thiếu tính chuyên nghiệp do chỉ 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành, 60-70% đơn vị kinh doanh chưa sử dụng CNTT vào lĩnh vực quản lý... chưa kể khó khăn về mặt bằng, vốn ít ỏi, khó tiếp cận đất đai.

11. Thương hiệu cho xuất khẩu lao động

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 29/01/2008 - Lý Hà

Tham gia thị trường xuất khẩu lao động hơn 10 năm qua, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh yếu. Xuất khẩu lao động đã tăng về quy mô nhưng lại chỉ tập trung ở những thị trường Đông Nam Á... Theo nhận định của tác giả, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang trong tình trạng “vàng thau lẫn lộn, có tình trạng “loạn, nhiễu” thông tin do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cạnh tranh không lành mạnh, mỗi doanh nghiệp một giá, một thông tin thị trường. Việc “ăn xổi ở thì” của một số doanh nghiệp đã dẫn đến kết cục cánh cửa sang thị trường một số nước như Qatar đã đóng lại với lao động Việt Nam.

Muốn khắc phục được điều này, lĩnh vực xuất khẩu lao động của Việt Nam phải tính đến chuyện xây dựng thương hiệu, tạo uy tín bằng việc nâng cao chất lượng, siết chặt quản lý. Chúng ta cần có chiến lược đầu tư phát triển ngành công nghiệp “xuất khẩu nhân lực” một cách bài bản hơn, hiệu quả hơn, không thể xem nhẹ việc tạo thương hiệu cho đội ngũ lao động Việt Nam. Xuất khẩu lao động là lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến con người, cần những doanh nghiệp có thương hiệu. Việc xếp hạng doanh nghiệp là điều nên làm một cách thực chất. Nếu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo quyết liệt, giám sát quyết liệt, các doanh nghiệp giám đầu tư bài bản và mạnh mẽ vào dạy nghề thì năm 2008 là năm chúng ta bước sẽ đưa xuất khẩu lao động sang một đặc thù mới - xuất khẩu lao động kỹ thuật có nhu cầu cao.

12. “Khủng hoảng” nhân lực

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp, 02/01/2008 - Quốc Anh & N.Minh

Bài báo chỉ ra ba vấn đề nổi cộm đối với thị trường lao động hiện nay.

Một là, thiếu hụt nhân viên kỹ thuật tay nghề cao sẽ là một vấn đề nan giải trong vài năm tới khi sự bùng nổ và xuất hiện của các công ty, tập đoàn đa quốc gia cùng với sự phát triển nhanh chóng của các DN trong nước đang là "cái phễu" khổng lồ hút nhân lực chất lượng cao đặc biệt ở cấp quản lý và một số ngành mới phát triển. Nguyên nhân của tình trạng này là nền kinh tế Việt Nam đang bùng nổ, thêm vào đó hệ thống giáo dục đào tạo chưa cung cấp đủ nguồn nhân lực có chuyên môn, tay nghề phù hợp với nhu cầu của các nhà tuyển dụng, dẫn đến "cơn sốt nhân tài" ngày càng gia tăng. Để giải quyết cuộc khủng hoảng này, các Cty phải có chiến lược tuyển dụng và phát triển nhân sự lâu dài. Không nên xem nhẹ các yếu tố cơ bản nhất như lương bổng, chính sách nhân sự, chức danh...

Hai là, thiếu hụt lao động ngành tài chính một cách trầm trọng. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp trong ngành “săn lẫn nhau”. Để bù đắp nhân lực bị thiếu hụt ở các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán, thẩm định giá, các và tại ngân hàng mới thành lập, họ chỉ còn cách "rút ruột" nhân lực từ các doanh nghiệp khác. Hơn lúc nào hết, khối ngân hàng quốc doanh đang bị yếu thế trong quá trình thu hút nhân lực, do chế độ đãi ngộ không bằng ngân hàng thương mại cổ phần.

Thứ ba là bí giải pháp hút nhân tài. Giải pháp trước mắt hiện nay để các doanh nghiệp kéo được lao động chất lượng cao chính là cạnh tranh bằng lương. Nhưng vấn đề lương lại đang là... điểm yếu của rất nhiều DN Việt Nam. Giải pháp “quốc tế hóa” nguồn nhân lực cũng chỉ phù hợp với một số vị trí cụ thể như các vị trí quản lý và tay nghề cao… Vậy là một giải pháp dài hơi cho việc khủng hoảng thị trường nhân lực chỉ còn trông chờ vào sự chuyển đổi của ngành giáo dục - đào tạo theo nhu cầu thực tiễn. Mà điều này xem ra khá xa vời.

13. Ba lực đẩy nhập siêu

Nguồn: Diễn đàn doanh nghiệp, 16/01/2008 – Nguyễn Đình Bích

Sau ba năm liên tục tăng đại nhảy vọt, giá nguyên liệu thế giới năm 2007 ở mức cao kỷ. Điều này tác động bất lợi "kép" đối với nền kinh tế nước ta. Tốc độ tăng NK vốn đã cao lại bị giá nguyên liệu NK tăng mạnh khuếch đại lên, cho nên NK tăng đột biến. Tiếp theo, cũng do giá nguyên liệu NK tăng mạnh, trong khi giá hàng chế tạo tăng không tương ứng, thu nhập và lợi nhuận của các DN sản xuất hàng XK từ các nguyên liệu NK giảm mạnh. Đây chính là "thủ phạm chính" dẫn đến tình trạng "đoàn tàu NK" của nước ta đột ngột tăng tốc.

Thứ hai, cho dù kim ngạch XK của nước ta trong năm qua đã tăng 21,5%, nhưng khoản chúng ta được hưởng lợi do giá cả thế giới sốt nóng lại nhỏ hơn nhiều so với khoản bị thua thiệt nói trên ở đầu vào NK và hơn nữa, hàng loạt mặt hàng XK chủ lực của nước ta đang "giậm chân tại chỗ", thậm chí giảm mạnh, nên càng làm cho tình trạng nhập siêu trở nên nghiêm trọng hơn.

Thứ ba, việc nhập siêu đạt kỷ lục chưa từng có về quy mô và tăng đại nhảy vọt về tốc độ trong năm đầu tiên gia nhập WTO vừa qua còn do tốc độ tăng đầu tư rất đáng mừng của nền kinh tế nước ta.

Từ những nguyên nhân vừa nêu, tác giả rút ra việc "giải bài toán" nhập siêu của nước ta chỉ có thể tiếp cận từ hai hướng: vừa đẩy mạnh XK, vừa phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp nguyên liệu, cũng như công nghiệp phù trợ trong nước để hưởng lợi "kép ba": hạn chế NK để hạn chế nhập siêu; nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng tốc phát triển kinh tế.

14. Đi tìm giải pháp quản lý minh bạch bất động sản.

Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam, 14/01/2008 - Thuỳ Trang

Theo tác giả của bài báo, sức hấp dẫn của thị trường địa ốc Việt Nam được lý giải bởi sự kết hợp của nhiều yếu tố tích cực như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong vòng 10 năm, địa vị thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, một cấu trúc dân số trẻ ở mức cao. Tuy nhiên, mức độ sôi động nhiều hay ít của thị trường bất động sản còn phụ thuộc vào các chính sách của Nhà nước điều chỉnh mối quan hệ cung-cầu, nhất là trong lĩnh vực nhà đất. Theo ý kiến của các chuyên gia, “Những biến đổi trong thị trường Bất động sản ở Việt Nam trong năm 2007 là có thật và đây là hiện tượng bình thường trong một nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, với những biến đổi đột ngột tạo nên những cơn “sốt” như vừa qua, đẩy giá nhà đất ở Hà Nội và Tp.HCM lên đỉnh cao nhất nhì trên thế giới là không bình thường. Bản chất của vấn đề tạo nên cơn “sốt” là cầu của thị trường bất động sản vượt quá “cung”, làm cho cán cân cung-cầu mất cân bằng đã đẩy giá lên cao, vượt quá bản chất thực của nó. Theo tác giả, giải pháp trước mắt là Chính phủ cần tăng quỹ đất cho phát triển khu đô thị, khu công nghiệp, du lịch, dịch vụ bằng cách đẩy nhanh việc triển khai quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị đã được phê duyệt; hỗ trợ các nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ các dự án đã được phê duyệt để tăng đầu vào cho thị trường sơ cấp; rà soát quy hoạch và cho phép chuyển mục đích các diện tích đất do các tổ chức sử dụng không đúng mục đích, không hiệu quả để đưa vào phát triển thị trường bất động sản; mở rộng và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án đáp ứng yêu cầu về nhà ở và văn phòng cho thuê. Có chính sách hỗ trợ về tài chính cho các chủ đầu tư vào việc nâng cấp các khu chung cư đã hết hạn sử dụng hoặc xuống cấp.

Một biện pháp nữa là nâng cao chất lượng quy hoạch và thực hiện quy hoạch các thành phố vệ tinh xung quanh Hà Nội và Tp.HCM. Nhanh chóng đưa quy hoạch các trường đại học, các khu công nghiệp, khách sạn, dịch vụ..., ra khỏi thành phố lớn đã được phê duyệt vào thực thi.

Tiếp tục cải cách hơn nữa các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai; đặc biệt là thủ tục giao đất, cho thuê đất đối với các nhà đầu tư; điều chỉnh một số nội dung trong quy định về giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đặc biệt là thời hạn công bố công khai phương án. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế tài chính, tìm các nguồn vốn hỗ trợ cho các nhà đầu tư được vay với lãi suất ưu đãi và dài hạn, hoàn thiện các quỹ hỗ trợ đầu tư, cải cách các thủ tục cho vay, hỗ trợ các dự án đầu tư trong lĩnh vực phát triển thị trường bất động sản

15. Nhìn lại thị trường tài chính tiền tệ quốc tế năm 2007

Nguồn: Thời báo Ngân hàng - 29/01/2008

Theo tác giả bài báo xu thế M&A trên thế giới tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong năm 2007. Tổng giá trị M&A trên toàn cầu trong nửa đầu năm 2007 đạt 2,8 nghìn tỷ. Việc củng cố lại ngành công nghiệp đã thúc đẩy sự gia tăng của các hoạt động M&A trong nửa đầu năm 2007 mặc dù có những dấu hiệu cho thấy sự ổn định của môi trường tín dụng giúp thúc đẩy sự bùng nổ của hoạt động M&A sắp kết thúc.

Cùng với kinh tế tăng trưởng cao, sự bùng nổi hoạt động M&A cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của dòng vốn FDI vào các nước trong năm 2007. Tuy nhiên sự bất ổn của thị trường tài chính tác động xấu tới hoạt động M&A trong nửa cuối năm 2007. Hoạt động M&A chậm lại so với năm 2005-2006. Quá trình tư nhân hoá tại các thị trường đang nổi cũng diễn ra yếu hơn so với những năm gần đây.

Bên cạnh đó, xu thế ký kết FTA song phương cũng diễn ra sôi nổi không kém. Theo tác giả của bài báo những lợi ích từ FTA là rất lớn. Trước hết, là sự đa dạng hoá trong hoạt động thương mại, đặc biệt giữa các bên có hiệp định ưu đãi thương mại. Thứ hai, FTA tạo ra những dịch vụ thương mại mới, hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao. Chính vì vậy việc ký kết các FTA song phương sẽ nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh làm cho hoạt động thương mại và kinh tế mỗi bên gia tăng được hiệu quả, trên cơ sở đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt được giá cả của hàng hoá và dịch vụ nâng cao kim ngạch thương mại hai chiều. Đáng chú ý về hoạt ộng FTA là việc ký kết các FTA song phương giữa các nền kinh tế đang phát triển với các nền kinh tế phát triển, nhất là khu vực chấu Á. giữa một khu vực với một nước hoặc một nhóm nước.