Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thách thức từ phát triển bền vững (04/02)

06/08/2010 - 58 Lượt xem

Cơ hội thuận lợi

Đúng như dự đoán trước đó, gia nhập WTO đã mang lại nhiều cơ hội đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh. Một năm sau thời điểm gia nhập, có thể thấy rằng VN cơ bản đã tận dụng thành công những cơ hội thuận lợi này.

Tác động đối với nền kinh tế thì có hơn, có thiệt nhưng nhìn tổng thể, đáng khích lệ là xu hướng tích cực, thuận lợi đang là xu hướng chủ đạo. GDP năm 2007 đạt mức 8,44%, mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Đây là mức tăng trưởng cao thứ 3 của châu Á, cao nhất trong các nước ASEAN.

Xuất khẩu đã có những tăng trưởng đáng ghi nhận, tăng 20,5% so với năm trước, dù rằng nhiều chuyên gia nhận định rằng mức tăng này còn chưa tương xứng với cơ hội (những năm trước khi gia nhập WTO, VN đã đạt mức tăng xuất khẩu xấp xỉ 20%). Tuy nhiên, đáng lưu ý là khu vực trong nước đạt tốc độ xuất khẩu tăng 23,1%, cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều ngành đã có mức tăng trưởng ấn tượng thời gian qua như dệt may tăng 31% (lần đầu tiên kim ngạch đạt 7,8 tỷ USD vượt qua dầu thô), điện tử máy tính tăng 24,6%, sản phẩm gỗ tăng 23,7%, sản phẩm nhựa tăng 48%...

Đặc biệt, huy động vốn đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài năm qua cũng đã có những thành công vượt bậc. Trong đó đáng lưu ý là vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân tăng 19,5%, chiếm 34,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cam kết vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục từ trước đến nay 20,3 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư tài chính và ODA cũng đều tăng mạnh.

Đây là những cơ hội có thể dự đoán trước khi VN gia nhập WTO. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là Chính phủ mới đã có những động thái rất chủ động và tích cực để tận dụng cơ hội này. Chính điều này đã tạo nên không khí lạc quan đối với cộng đồng DN và các nhà đầu tư trong và ngoài nước và từ đó những cơ hội tiềm tàng đã được hiện thực hoá. Theo đánh giá của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản JBIC, VN là thị trường đầu tư tiềm năng thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Ấn Độ, đứng đầu ASEAN. Báo cáo do Ủy ban Thương mại và Phát triển của Liên Hợp Quốc công bố tháng 10 năm 2007 thì VN đứng thứ 6 trong các nền kinh tế hấp dẫn nhất về đầu tư toàn cầu. Điều tra 6.700 DN dân doanh của VCCI năm 2007 cũng cho thấy tâm lý lạc quan này, 83% DN dân doanh có hoạt động xuất khẩu dự kiến tăng quy mô kinh doanh của mình trong 2 năm tới, mức cao hơn so với 71% của các DN nói chung.

Đối mặt với nhiều cản trở

Cũng trong quá trình phát triển và hội nhập mạnh mẽ này, có lẽ chưa lúc nào, nền kinh tế VN lại phải trực tiếp đối mặt với những khó khăn và hạn chế của mình rõ như năm vừa qua: đó là những hạn chế trong điều hành kinh tế vĩ mô (tình trạng lạm phát, nhập siêu...); sự thiếu hụt về nguồn nhân lực có chất lượng; sự quá tải đối với cơ sở hạ tầng: cảng biển, sân bay, đường giao thông... Ngoài ra, một năm qua cũng chứng kiến nhiều vấn đề kinh tế - xã hội khác đang trở nên nóng bỏng như vấn đề ô nhiễm môi trường, ùn tắc trong trong các đô thị, nguy cơ đình công lan rộng... Đối với từng DN, quy mô nhỏ, thông tin và kiến thức hạn chế, trình độ công nghệ, trình độ quản lý, nhân lực còn nhiều yếu kém... là những cản trở đáng kể đối với phát triển và hội nhập.

Nếu không vượt qua được những cản trở nội tại này, VN có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội để thoát khỏi ngưỡng kém phát triển và vượt qua những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập. Khoảng cách lớn giữa vốn cam kết đầu tư và vốn đầu tư thực hiện thời gian qua là một minh chứng cho hệ quả của những cản trở này. Tôi muốn nhấn mạnh về ba cản trở chính và nhiều nhà đầu tư gọi là các “nút thắt cổ chai” đối với nền kinh tế VN.

Thứ nhất là cản trở từ nguồn nhân lực. Có một thực tế rõ ràng là hiện nay nhiều dự án đầu tư trong nước hay nước ngoài, kỹ thuật cao cũng như thâm dụng lao động đều đang gặp nhiều khó khăn vì sự thiếu hụt lao động có kỹ năng. Trong khi đó, giải quyết tốt vấn đề này tiếp tục là thách thức lớn đối với Chính phủ trong thời gian tới vì theo đánh giá (của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) tới 70% lao động VN hiện chưa qua đào tạo, 80% thanh niên VN trong độ tuổi 20 – 24 khi tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo nghề. Ngoài ra các khó khăn khác như ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp của người lao động còn kém...

Thứ hai là cản trở từ cơ sở hạ tầng. Tại nhiều diễn đàn khác nhau những năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đều đánh giá rằng cơ sở hạ tầng của VN hiện nay chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế. Tình trạng quá tải tại các sân bay, cảng biển, hệ thống giao thông đô thị... tình trạng thiếu năng lượng, nước sạch, hệ thống xử lý nước thải... đang làm nhiều nhà đầu tư mới chần chừ khi quyết định đầu tư vào VN và bản thân các DN đã đầu tư cũng phải cân nhắc về kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh của mình.

Thứ ba là cản trở từ thủ tục hành chính và chất lượng điều hành của bộ máy chính quyền các cấp. Dù những nỗ lực cải cách hành chính và chống tham nhũng của Chính phủ đã bước đầu đạt được những thành công và được cộng đồng DN ghi nhận, đây vẫn là những trở ngại lớn đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của các DN, đặc biệt là các thủ tục hành chính liên quan đến việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản... Điều tra của VCCI năm 2007 cho thấy, hơn 65% DN cho biết họ sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh nếu dễ dàng tiếp cận đất đai hơn và thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản đơn giản hơn.

Đáng chú ý là những cản trở nội tại này của VN vốn tồn tại từ nhiều năm, không phải do tác động bên ngoài từ việc gia nhập WTO, cũng không phải do chưa có những nỗ lực cải cách. Điều này cho thấy thách thức để vượt qua những cản trở này trong thời gian tới sẽ là rất lớn và khó khăn. Áp lực từ việc gia nhập WTO và hội nhập thể hiện trong năm vừa rồi đã và sẽ là một sức ép mới để Nhà nước và các DN nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa vượt qua những cản trở này.

Thách thức từ phát triển bền vững

Ngoài những yếu tố cản trở sự tăng trưởng kinh tế của VN, còn có những yếu tố khác khiến cho những tăng trưởng đã đạt được trở nên không bền vững. Những kết quả đạt được năm vừa qua dù khả quan nhưng vẫn tiềm ẩn những bất ổn. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đều và chưa bền vững. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khá cao (20,5%) nhưng tốc độ giá trị tăng thêm thấp, khoảng 10,2%. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng, đặc biệt các dự án về hạ tầng, năng lượng còn chậm, tác động dây chuyền đến cả nền kinh tế. Hàng loạt vấn đề xã hội đang trở nên gay gắt: giá cả tăng cao, ô nhiễm môi trường ở các trung tâm công nghiệp và tình trạng ùn tắc giao thông tại một số thành phố lớn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân.

Ngay như xuất khẩu, dù những năm qua xuất khẩu VN luôn đạt được những thành công ấn tượng, nhưng không phải không tiềm ẩn những yếu kém: Tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài như sự biến động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của nước ngoài; Các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thủy, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính.. chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công. Cơ cấu hàng xuất khẩu của VN thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn; Nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nguồn lực đầu tư...

Lĩnh vực khác được đánh giá là thành công trong mấy năm qua là thu hút đầu tư nước ngoài nhưng cũng có những nguy cơ đáng lo ngại. Đó là nguy cơ tụt hậu của một số tỉnh, thành, vùng miền. Dù cơ hội phát triển kinh tế, thu hút đầu tư được tạo ra nhiều từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng một số địa phương, vùng miền đang tụt lại sau trong quá trình này. Sau 20 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về thu hút FDI đang chiếm đến hơn 80% số dự án đầu tư nước ngoài, hơn 82% tổng vốn đăng ký, gần 81% tổng vốn điều lệ và gần 83% số vốn thực hiện của cả nước. Điều đáng quan tâm là nhóm 10 tỉnh đứng cuối dù khiêm tốn chiếm 0,44% tổng số dự án, 0,16% số vốn đầu tư nhưng tiếp tục không có nhiều cơ hội để cải thiện tình hình. Đáng lo ngại không chỉ bị bất lợi về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực... mà ngay cả chất lượng điều hành kinh tế ở các tỉnh này cũng còn yếu kém.

Mặc dầu còn rất nhiều việc cần phải làm, nhưng chưa bao giờ, môi trường đầu tư kinh doanh ở VN thuận lợi như lúc này. Và chúng ta tin rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng thuận của toàn dân, nỗ lực của các Bộ, ngành, địa phương và từng DN, chúng ta sẽ sớm đưa nước ta thành một nước phát triển trong tương lai gần.
Nguồn: DDDN