Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thủ phạm đẩy giá (15/02)

06/08/2010 - 56 Lượt xem

Từ thực trạng của nền kinh tế nước ta, có thể khẳng định rằng, NK tăng đại nhảy vọt cùng với trình độ phát triển thấp và những bất cập bên trong nền kinh tế tạo nên “điểm tối” giá cả.

Do giữ giá USD?

Theo nhiều nhận định sức ép chủ yếu lên mặt bằng giá cả nước ta trong năm qua là do việc tung cả trăm nghìn tỷ đồng để giữ cho USD không bị xuống giá so với đồng Việt Nam. Tuy nhiên, nhận định này không có sức thuyết phục trên hai phương diện sau đây:

Một là, cùng “hít thở trong bầu không khí” giá cả nguyên liệu thế giới sốt nóng như nhau, nhưng ai “hít” nhiều hơn thì đương nhiên “cơ thể” sẽ bị nóng nhiều hơn, và ngược lại.

Chẳng hạn, với quy mô GDP 5.333,2 tỷ đôla quốc tế (PPP) của Trung Quốc theo ICP do Ngân hàng thế giới vừa công bố gần đây, cho dù kim ngạch NK nguyên liệu trong năm này là con số khổng lồ 315,5 tỷ USD, với tỷ lệ sốt nóng giả định là 10%, cho nên quy mô “NK sốt nóng giá cả thế giới” vào thị trường nước này lên tới 31,55 tỷ USD, nhưng tỷ trọng của “sốt nóng giá cả thế giới NK” vào “người khổng lồ này chỉ là 0,59% (31,55 tỷ USD/5.333,2 tỷ đôla quốc tế). Trong khi đó, cũng theo nguồn số liệu này, đối với nền kinh tế nước ta, do quy mô GDP chỉ là 178,1 tỷ đôla quốc tế (của Trung Quốc gấp 29,94 lần), cho nên với kim ngạch NK nguyên liệu trong năm này tuy chỉ là 25,2 tỷ USD (của Trung Quốc chỉ gấp 12,52) và cũng với tỷ lệ sốt nóng giả định như vậy, quy mô “NK sốt nóng giá cả thế giới” cũng chỉ là 2,52 tỷ USD, nhưng tỷ trọng của “sốt nóng giá cả thế giới NK” vào nền kinh tế nước ta là 1,41%, tức là cao gấp 2,39 lần so với của Trung Quốc.

Những điều nói trên có nghĩa là, nếu xét về tuyệt đối, cho dù quy mô “NK sốt nóng giá cả thế giới” của Trung Quốc lớn gấp 12,52 lần, nhưng do quy mô của nền kinh tế lớn gấp 29,94 lần, cho nên nền kinh tế này “bị nóng” bằng 41,84% của nước ta. Do vậy, với tốc độ tăng NK vượt trội của nước ta hai năm qua, đặc biệt là năm 2007, chắc chắn khoảng cách này còn lớn hơn nữa. Quy mô “NK sốt nóng giá cả thế giới” ước tính 6 tỷ USD của nền kinh tế nước ta bằng khoảng 8,4% GDP và bằng khoảng 13,3% tổng dung lượng của thị trường bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng năm 2007 đủ cho thấy điều đó.

Nói cách khác, trong điều kiện độ mở ở đầu vào NK nguyên liệu của nền kinh tế nước ta cao “một trời một vực” so với tất cả các nước trong khu vực, tác động bất lợi của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới đối với nền kinh tế nước ta hiển nhiên là nhiều hơn hẳn, cho nên việc so sánh “tại sao các nước trong khu vực cũng NK nguyên liệu gấp nhiều lần, nhưng lạm phát lại thấp hơn hẳn nước ta” là hoàn toàn khập khiễng.


Năm 2007 là năm “hội tụ” quá nhiều yếu tố vừa đẩy, vừa kéo khiến giá tiêu dùng nước ta tăng phi mã. Trong đó, NK tăng đột biến, mà phần đột biến này chính là do quy mô “NK sốt nóng giá cả thế giới” quá lớn khuếch đại lên, không thể không giữ vai trò đặc biệt và vì vậy nó đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến “cơn lốc giá”. Đặc biệt, trong 2008, nếu không thật sự tiết chế được chiếc “van điều tiết” này thì đây sẽ là tác nhân gây... loạn giá.


Hai là, đúng là việc tung cả trăm nghìn tỷ để giữ cho đồng USD không bị xuống giá so với đồng Việt Nam cũng không thể không góp phần làm cho “điểm tối” giá tiêu dùng thêm tối, nhưng nếu phủ nhận vai trò này của sốt nóng giá cả nguyên liệu thế giới, thì chúng ta cũng không thể lý giải được nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng giá tiêu dùng của nước ta đã liên tục cao ngất ngưởng. Và nếu vậy thì càng không thể lý giải được hiện tượng giá tiêu dùng của nước ta cũng chỉ tăng cao hơn không đáng kể so với của các nước trong khu vực trong chu kỳ sốt lạnh giá cả thế giới 1999-2003 vừa qua.

Từ thực tế này, có lẽ nhận định như sau sẽ có sức thuyết phục hơn. Đó là, tác nhân tiền tệ là “kẻ đồng phạm” gây nên tình trạng giá tiêu dùng tăng đột biến trong năm 2007.

Hay giảm thuế suất NK?

Giải pháp “đinh” giảm mạnh thuế suất NK trên diện rộng thực tế lại không thể phát huy được tác dụng do tương quan giữa mặt bằng giá cả trong nước và thế giới.

Trong điều kiện mở cửa, mặt bằng giá cả trong nước càng thấp thì tốc độ giá tiêu dùng tăng càng cao, và ngược lại, bởi đều tuân theo quy luật “nước chảy chỗ trũng”. Có thể ví thuế suất XNK như “những chiếc van điều tiết kênh tiêu và kênh tưới”. Xét trên phương diện này, nền kinh tế nước ta đang thuộc “vùng trũng nhất” trong khu vực và thậm chí là một trong những “vùng trũng nhất” của thế giới.

Trước hết, từ các kết quả tính toán trong ICP của Ngân hàng thế giới như đã nói trên, có thể rút ra được hệ số giữa GDP tính bằng đôla quốc tế theo PPP so với GDP tính bằng USD thực tế của từng quốc gia. Trong đó, do GDP tính bằng đôla quốc tế là đơn vị đo “chuẩn” cho tất cả các nước, cho nên hệ số này phản ánh mức độ “lệch chuẩn” trong tính toán GDP bằng USD thực tế của từng quốc gia và mức độ “lệch chuẩn” càng cao chứng tỏ mặt bằng giá cả của quốc gia đó càng thấp, và ngược lại.

Các kết quả tính toán cụ thể cho thấy, hệ số này của nước ta cao thứ nhì trong khu vực với 336,67%, chỉ kém không nhiều so với kỷ lục 351,72% của Lào và cao hơn cả của Campuchia (319,05%). Không những vậy, tuy GDP bình quân đầu người tính theo USD thực tế của nước ta cùng ở thời điểm này chỉ bằng 90,10% của Ấn độ (707 USD), nhưng hệ số này của nước ta vẫn cao hơn 36,04%, cho nên quy ra đôla quốc tế lại cao hơn, cho dù là rất không đáng kể (2.142 đôla quốc tế/2.126 đôla quốc tế, tương ứng với 0,75%). Và ngược lại, đối với 6 quốc gia khác trong khu vực đã đạt GDP bình quân đầu người cao hơn hẳn so với của nước ta, lần lượt gồm Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia, Philippines và Pakistan (cao nhất là 5.250 USD và thấp nhất là 769 USD), hệ số này càng thấp hơn, bởi chỉ dao động trong khoảng 218,37% và 253,29%.

Vì vậy, nhìn chung, mặt bằng giá cả trong nước của các quốc gia phát triển càng cao càng sát với mặt bằng giá “chuẩn” của thế giới, còn riêng của nước ta lại thấp hơn so với “thông lệ”. Hơn thế, việc hệ số này cao như vậy trong điều kiện độ mở cả ở đầu vào NK, lẫn ở đầu ra XK của nước ta thuộc “tốp 3” trong khu vực, đặc biệt là cao kỷ lục ở độ mở đầu vào NK nguyên liệu, chứng tỏ độ mở của nền kinh tế nước ta rất lớn, cho nên việc mặt bằng giá cả càng dâng lên nhanh để nhanh chóng tiệm cận mặt bằng giá cả thế giới do “cả van điều tiết kênh tưới lẫn kênh tiêu” đều mở rất rộng là những bước phát triển hợp quy luật.

Trong bối cảnh như vậy, cho dù giá tiêu dùng của nước ta trong năm qua tăng đột biến, nhưng việc giải pháp “đinh” hạ thuế suất NK cũng không thể giúp hạ nhiệt thị trường trong nước như mong muốn là điều rất dễ hiểu.

Cộng thêm “thủ phạm””... hàng tiêu dùng

Từ các số liệu thống kê của nước ta, có thể thấy, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống cũng là “thủ phạm quan trọng” dẫn đến tình trạng giá tiêu dùng liên tục leo thang trong năm 2007. Cụ thể, việc giá tiêu dùng tăng phi mã 12,63% trước hết và chủ yếu là do giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng đại nhảy vọt 18,92% và đạt kỷ lục cao nhất trong vòng 12 năm trở lại đây, cao gấp 2,39% so với của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại, do tốc độ tăng giá chung của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại chỉ ở mức 7,91%.

Cũng chính vì tăng phi mã như vậy, cho nên vào thời điểm cuối năm 2007 nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã chiếm 64,19% trong tổng mức tăng của giá tiêu dùng, trong khi ở thời điểm đầu năm chỉ mới chiếm 46,10%. Có thể nói, đây chỉ là “đoạn kết” của cả một quá trình diễn biến trong 4 năm qua. Bởi lẽ, từ các số liệu thống kê về giá tiêu dùng, có thể thấy rằng, để giá tiêu dùng tăng tổng cộng 42,51% trong 4 năm, giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã tăng tổng cộng 64,35% (tăng bình quân 13,22%/năm), tức là tăng cao gấp 2,46 lần so với giá của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ còn lại chỉ với 26,14% (chỉ tăng bình quân 5,98%/năm).

Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, giá của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống đã sốt nóng trong một khoảng thời gian quá dài do hàng loạt nguyên nhân khác nhau. Nhưng điều đáng buồn hơn cả là trong những ngày đầu của năm 2008, giá của nhóm hàng này cũng không có dấu hiệu bình ổn.

Số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tháng 1/2008 đã tăng 2,38% so với tháng 12/2007, cao gấp đôi cùng kỳ năm trước. Trong số này, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng tới 3,76% - đứng đầu về tốc độ tăng giá. CPI trong tháng đầu năm ở các thành phố lớn đã tăng 2,19%, nhưng chỉ số CPI tại khu vực nông thôn lại tăng tới 2,53%. Nguyên nhân tăng giá tại các vùng nông thôn chủ yếu do giá thực phẩm tăng vọt, tới 4,17% và chi phí cho nhà cửa, vật liệu xây dựng tăng tới 3,16%.

Bên cạnh hai tác nhân nói trên, việc giá tiêu dùng tăng đột biến còn do rất nhiều tác nhân khác tồn tại ngay trong nền kinh tế nước ta, chẳng hạn như lạm phát do cầu kéo đặc biệt mạnh do nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao kỷ lục, đặc biệt là nhu cầu đầu tư tăng đột biến, hoặc bên cạnh việc phải đối phó với hàng loạt các tác nhân nói trên, chúng ta còn phải “thanh toán” một số “món nợ khê đọng về giá” từ ba năm sốt nóng giá cả trước đó...
Nguồn: DDDN