Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

“Mặt tiền” kinh tế biển (20/02)

06/08/2010 - 33 Lượt xem

 

Thậm chí, có nhà kinh tế còn cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần "quay mặt ra biển" để phát triển, chứ không đứng quay lưng ra biển như từ trước đến nay.

Chiếm 55% GDP: Mục tiêu... khiêm tốn?

Tại Đề án Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, một mục tiêu quan trọng được xác định kinh tế biển sẽ chiếm từ 53 - 55% GDP vào năm 2020. Hiện tại, các nguồn lực vật chất và trí tuệ khổng lồ đang được tập trung để thực hiện mục tiêu này. Chỉ trong vài năm, vốn đầu tư phát triển công nghiệp đóng tàu đã vượt trên 2,5 tỷ USD. Đóng tàu đã trở thành ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng lớn nhất của cả nền kinh tế với khả năng đóng mới tàu chuyên dụng, tàu trọng tải lớn xuất khẩu và phục vụ trong nước. Nhiều DN ngành đóng tàu Việt Nam thông báo đã đủ đơn đặt hàng cho 10 năm tới. Không chỉ vậy, ngành đóng tàu đang được đầu tư với định hướng nội địa hóa cao, bao gồm khả năng tự sản xuất động cơ tàu biển, thép tấm dùng đóng tàu, các nghi khí hàng hải...

Thực tế thu hút đầu tư, việc hàng loạt dự án lớn của các ngành kinh tế trọng điểm (khai thác dầu thô và lọc dầu, đóng tàu, sản xuất thép, du lịch) tại các tỉnh ven biển sắp đi vào hoạt động đã cho thấy: các ngành kinh tế biển sẽ chiếm 55% GDP vào năm 2020 là mục tiêu trong tầm tay. Nếu không nói là còn... khiêm tốn với tiềm năng kinh tế biển của Việt Nam.

Cơ hội vàng cho DN

Tại cuộc gặp gỡ đầu năm 2008, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Đăng kiểm Việt Nam, Vinashin, Vinalines và trường đại học Hàng hải Việt Nam đã tuyên bố cùng phối hợp phấn đấu để nâng trọng tải đội tàu biển Việt Nam lên 7 triệu tấn vào năm 2010, năm 2015 đạt trên 10 triệu tấn và năm 2020 là trên 12 triệu tấn. Nhằm đạt khả năng chuyên chở 35% lượng hàng hoá nội địa và 25% lượng hàng hoá xuất khẩu của cả nước vào năm 2010 và trên 45% tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển trong nước vào năm 2020. Việc phối hợp cũng nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa các loại hình dịch vụ, đào tạo nhân lực, hệ thống pháp lý... đáp ứng nhu cầu phát triển, hội nhập ngành vận tải biển Việt Nam nói riêng và kinh tế biển Việt Nam nói chung. Thực tế, vận tải biển – cả ở các DNNN và các DN tư nhân - cũng là ngành được Nhà nước tạo cơ chế tài chính hỗ trợ rất lớn, và đã đạt mức phát triển đột biến thời gian qua.


Các nhà nghiên cứu đã đề xuất hình thành một con đường cao tốc dọc bờ biển, chiến lược biển cũng đề cập đến vấn đề hình thành hệ thống đô thị ven biển. Về dài hạn, hệ thống đô thị này sẽ là các trung tâm phát triển kinh tế. Tuy nhiên, phát triển kinh tế hài hoà với môi trường, có tính toán đến những thay đổi và những tác động của thiên tai cần phải được cân nhắc. Phát triển kinh tế hài hoà với môi trường, bảo vệ môi trường, cần tính toán đến những thay đổi môi trường, khí hậu và những tác động của thiên tai trong lập chiến lược biển. Ngược lại nếu những tính toán... thiếu tầm nhìn thì có thể biến "mặt tiền" biển thành loại mặt tiền với các nhà ống san sát dọc theo quốc lộ gây cản trở cho giao thông và cho sự phát triển của đất nước.


Mặt khác, chưa bao giờ tình hình đầu tư vào các tỉnh ven biển của Việt Nam lại sôi động như trong thời gian qua với nhiều dự án có mức đầu tư hàng tỷ USD. Chẳng hạn như dự án NM lọc dầu Vũng Rô (Phú Yên) công suất 4 triệu tấn/năm, tổng vốn đầu tư 1,7 tỷ USD; dự án NM sản xuất thép của Ấn Độ tại Bà Rịa - Vũng Tàu, tổng vốn trên 527 triệu USD, Dự án án xây dựng Cảng SP-SPA Cái Mép của Singapore, tổng vốn 165 triệu USD... Khu kinh tế vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) đã và đang hình thành 48 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu tư trên 7 tỷ USD. Trong đó, có 17 dự án đã hoạt động, 19 dự án đang triển khai; 12 dự án mới đăng ký, khảo sát đầu tư... Các dự án chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng như luyện thép, điện, hóa dầu, khai thác, kinh doanh cảng và dịch vụ hàng hải, dịch vụ du lịch, đóng tàu... Tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản) đã đề nghị được đầu tư 2 dự án vào khu kinh tế này với quy mô vốn đầu tư gần 4,2 tỷ USD. Trong đó, dự án xây dựng NM nhiệt điện công suất 2.640 MW có số vốn gần 4 tỷ USD. Đồng thời, Sumitomo cũng sẽ đầu tư 196 triệu USD cho dự án cảng trung chuyển container tại Đầm Môn.

DN vẫn lụy hành chính

Năm 2007, Việt Nam đã thu hút tổng số hơn 20,3 tỷ USD vốn FDI, vượt xa mục tiêu đặt ra tại kế hoạch năm (6-7 tỷ USD). Nhưng đằng sau số tăng đột biến này, là sự lo lắng triền miên về khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Cụ thể, vốn thực hiện của các dự án mới là 4,6/20,3 tỷ USD, chiếm chưa tới 30% tổng vốn đăng ký. Chi tiết hơn, trong khi mức đăng ký đầu tư tăng đột biến, thì mức thực hiện chỉ tăng không đáng kể với kế hoạch đề ra (4,6/4,5 tỷ USD). Mức thực hiện này còn kém hơn hẳn các năm trước (bình quân là trên 30% vốn đăng ký mỗi năm). Điều đó cho thấy việc tăng thu hút vốn đầu tư của Việt Nam trong năm qua chủ yếu là về lượng, chứ chưa xuất hiện sự tăng tương ứng về vốn thực hiện. Trừ đóng tàu và vận tải biển, tình hình thực hiện đầu tư của các dự án liên quan chiến lược phát triển kinh tế biển cũng không nằm ngoài quỹ đạo trên.

Nguyên nhân của tình trạng này không mới, là đều bắt nguồn từ hạn chế của bộ máy hành chính và hệ thống CSHT như điện, đường, nhân lực có trình độ... Chẳng hạn, với định hướng “phát triển mạnh, đi trước một bước một số vùng kinh tế ven biển và hải đảo”, nhiều KCN, KCX, khu kinh tế mở, khu đô thị ven biển đã đạt được mức tăng vượt bậc trong thu hút đầu tư... Nhưng tốc độ điều chỉnh, ban hành cơ chế, chính sách và xây dựng CSHT thì vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn. Các nhà đầu tư (cả trong và ngoài nước) vẫn phàn nàn về khả năng tiếp cận thông tin từ các cơ quan nhà nước. Thậm chí, nhà đầu tư tại một địa phương đã tố cáo phải “mua” thành viên của bộ máy hành chính để “chạy” dự án... Kết quả đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đã cho thấy thực tế đáng buồn: trên 50% số DN khẳng định phải phụ thuộc vào mối quan hệ với cơ quan nhà nước địa phương, trung ương để có được thông tin; 77% DN công nhận đã “đàm phán” với cán bộ thuế ở địa phương về số thuế phải trả, và việc “đàm phán” này là phần “quan trọng” của công việc kinh doanh. Có nghĩa là hoạt động của DN vẫn phụ thuộc khá lớn vào quan điểm chủ quan của công chức của chính quyền địa phương – chính là tiền đề của nạn tham nhũng. Như vậy, đẩy mạnh sự minh bạch của bộ máy hành chính và các chính sách quản lý vẫn là yêu cầu trọng tâm đặt ra với Nhà nước trong nỗ lực tăng cao hơn nữa tỷ lệ vốn thực hiện của các dự án đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển kinh tế biển nói riêng.

Chìa khóa phát triển

Trong khi dòng vốn đầu tư đổ vào cảng biển, đóng tàu, khu du lịch biển tăng lên rất nhanh thì vốn đầu tư vào các dự án CSHT như đường bộ, đường sắt lại chưa có mức tăng tương ứng. Và, xây dựng các công trình này, dường như, vẫn có ít nhà đầu tư dám... mạo hiểm đầu tư. Chính phủ đã công bố 12 dự án xây dựng CSHT giao thông mời gọi đầu tư, và dành 30 tỷ USD đầu tư cho CSHT. Gần đây, một số DN đã đề nghị, có dự án đầu tư xây dựng, khai thác đường cao tốc, phần lớn trong số đó là các DN, tập đoàn nhà nước. Cần nhấn mạnh là, cho dù DN có được chấp nhận là chủ đầu tư, khai thác dự án đường giao thông, thì việc hoàn thành hàng nghìn km đường vẫn là thách thức rất lớn đối với Nhà nước, chứ không chỉ DN. Trong khi đó thì hoàn thiện hạ tầng giao thông, công nghiệp vẫn được xem như “chìa khóa” để đẩy nhanh tốc độ tăng về lượng và chất của các nguồn đầu tư.

Điều đó có nghĩa, những mục tiêu mà Chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam hướng tới chỉ có thể sớm đạt được - thậm chí là... vượt chỉ tiêu - nếu được gắn chặt với sự minh bạch của nền hành chính và tốc độ hoàn thiện của hệ thống CSHT
Nguồn: DDDN