Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

VN có thể giảm lạm phát xuống mức 7-8% (22/02)

06/08/2010 - 67 Lượt xem

Kết thúc chuyến thăm Việt Nam theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ông Haruhiko Kuroda đã có cuộc gặp gỡ với báo chí.

Trong đó, ông bày tỏ niềm hy vọng và lạc quan vào sự phát triển của Việt Nam. Đặc biệt, ấn tượng với những chỉ tiêu mà Việt Nam đã đạt được, sau khi gia nhập WTO…

Ông cũng trông đợi Việt Nam sẽ sớm trở thành nước có thu nhập trung bình trong tương lại gần.

Theo ông Kuroda, Việt Nam sẽ phát triển hơn nhưng cũng sẽ phải đối đầu với những thách thức mới. ADB cam kết với Việt Nam trong nỗi lực vượt qua đói nghèo, mở rộng cơ hội giáo dục cho trẻ em, mở nút thắt cổ chai đối với cơ sở hạ tầng và giúp Việt Nam tăng trường bền vững.

Theo ông, những rủi ro do suy thoái của nền kinh tế toàn cầu có thể tác động tới Việt Nam như thế nào?

Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển rất vững chắc, có thể đạt GDP từ 8,5% - 9% trong trung và dài hạn, với điều kiện Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn 2008, Việt Nam và châu Á ít nhiều sẽ bị tác động bởi sự suy giảm toàn cầu, bắt nguồn từ Hoa Kỳ. Theo dự báo của FED, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng giảm 1,5%, các nền kinh tế châu Á sẽ chịu tác động nhất định, nhưng Việt Nam cũng chỉ phải chịu phần đáng kể.

Chúng tôi cho rằng, sự giảm sút là hữu ích và tạo động cơ cho Việt nam giảm lạm phát trong thời gian qua. Lạm phát năm 2007 tại Việt Nam đã tăng 2 con số nhưng tôi tin với biện pháp thắt chặt tiền tệ, Việt Nam có thể giảm lạm phát xuống một con số và có thể giảm xuống mức 7-8% trong một vài tháng tới.

Khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập bậc trung, hỗ trợ của ADB có thay đổi không?

Hiện ADB có hai loại hỗ trợ cho Việt Nam: Các khoản cho vay với lãi suất cực kỳ ưu đãi, các khoản cho vay không hoàn lại và mức độ ưu đãi ít hơn.

Tôi cũng nhấn mạnh rằng thời gian tới Việt Nam sẽ vẫn rất cần những khoản vay ưu đãi cao hoặc viện trợ không hoàn lại để đầu tư cho lĩnh vực an sinh xã hội, đặc biệt là đầu tư cho y tế và giáo dục.

Trong một vài năm tới, chúng tôi cũng có thể thay đổi sự hỗ trợ đối với Việt Nam trong một số lĩnh vực khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập bậc trung như Thái Lan, Trung Quốc. Khi đó, chúng tôi sẽ tập trung hỗ trợ Chính phủ nhiều hơn trong các dự án về cơ sở hạ tầng, kinh tế, hỗ trợ Chính phủ trong các dự án cải thiện và bảo vệ môi trường.

Khi Việt Nam trở thành một nước có thu nhập trung bình, thậm chí thành một nước công nghiệp thì nhu cầu về cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, quy hoạch cần phải khác hơn. 

Tuy nhiên tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng giảm đói nghèo vẫn là một trong những thách thức đối với Việt Nam, kể cả ở các nước thu nhập bậc trung như Trung Quốc, Thái Lan và một số nước ở khu vực Trung Á khác, trong những năm tới.

ADB khuyến cáo Việt Nam cần tập trung nhiều nhân tố, đặc biệt phát triển kinh tế phát triển, để tránh chịu những tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu. Các nhân tố này là những nhân tố nào? Nguồn ngoại tệ từ nước ngoài vào Việt Nam tương đối cao so với các nước khác. Ông có thể dự báo thời gian tới nguồn ngoại tệ này sẽ vào ở mức độ như thế nào?

Theo dự báo, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ giảm sút trong thời gian tới và điều này tác động đáng kế đến châu Á, trong đó có Việt Nam. Sức ép lạm phát do giá hàng hoá, lượng thực, giá dầu tăng lên nên Việt Nam cần có sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ và có biện pháp giảm sức ép lạm phát. Việt Nam cũng cần giám sát chặt chẽ tình hình biến động tài khoản vãng lai.

Còn vì sao lạm phát lại tăng trong khi tăng trưởng tại châu Á, trong đó có Việt Nam, lại giảm xuống là do có hai nhân tố. Thứ nhất do luôn có độ trễ giữa thời gian tăng trưởng cao và lạm phát. Thứ hai là đối với các nền kinh tế châu Á, đặc biệt với Việt Nam, những nhân tố bên ngoài thường lớn, thậm chí là những nhân tố chủ đạo.

Như tôi đã nói, những nhân tố bên ngoài đó là những nhân tố như: giá lương thực, giá dầu tăng cao và nhanh trong thời gian vừa qua.

Chính vì thế mà tôi cho rằng các Chính phủ ở châu Á cần giám sát chặt chẽ những biến động như trên, nhất là khi sức ép lạm phát tăng. Cần phải áp dụng các chính sách tiền tệ thắt chặt để kiểm soát lạm phát.

Về nguồn ngoại tệ chuyển về từ nước ngoài. Đây luôn luôn là một nguồn tài chính ổn định. Chẳng hạn như trường hợp của Philippines, nơi ADB có trụ sở, nguồn tiền chuyển về từ nước ngoài trong năm ngoái đạt trên 15 tỉ USD (khoảng 10% GDP). Nhờ nguồn tiền này, nền kinh tế của Philippines phát triển tương đối nhanh trong khi lạm phát thấp.

Chính vì vậy tôi cho rằng nguồn ngoại tệ chuyển từ nước ngoài về rất chính là nguồn tài chính ổn định, an toàn và quan trọng. Tuy nhiên, nguồn này cần được chuyển qua các kênh công khai, minh bạch, tránh mất những khoản phụ phí không cần thiết. Các khoản tiền này, dù là thuộc lĩnh vực tư nhân, cần phải được sử dụng vào các dự án đầu tư hữu ích, có hiệu quả, đúng mục đích.

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng chính sách xã hội cần phải có yếu tố gì để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của mình?

Tôi cho rằng trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng tư nhân, ngân hàng thương mại của Nhà nước cũng phải cho các công ty, cá nhân vay tín dụng dựa trên những tiêu chí kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh hoạt động của các ngân hàng đó còn có những ngân hàng chính sách cung cấp các khoản tài chính, tín dụng cho các dự án kinh tế, xã hội.

Cách các ngân hàng này hoạt động khi hỗ trợ cho các dự án xã hội, theo tôi họ cần củng cố các khoản tín dụng vi mô, tập trung cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tôi biết Chính phủ Việt Nam có những hoạt động trong lĩnh vực này nhưng cần phải đẩy mạnh hơn nữa.

Ông có nhấn mạnh nhân tố bên ngoài có tác động lớn đối với lạm phát ở Việt Nam. Tuy nhiên tại sao các nước châu Á vẫn duy trì mức lạm phát chỉ bằng 1/ 4, 1/5 so với Việt Nam?

Nếu nhìn vào các nền kinh tế khác ở châu Á thì có thể thấy có những nền kinh tế tỉ lệ lạm phát cao như: Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh… Nhóm các nước ở Đông Nam Á có tỷ lệ lạm phát tương đối thấp như Thái Lan, Philippines.

Những nước này dù lạm phát thấp nhưng cũng phải chịu tác động của nhiều nhân tố bên ngoài. Bí quyết của các nước này là trong thời gian vừa qua họ đã tăng giá đồng nội tệ. Việc tăng giá này khiến nguồn nhập khẩu ít tạo ra ít biến động về lạm phát trong khi nhiều nước khác lại không nâng giá đồng nội tệ.

Đối với những nước có tỷ lệ lạm phát cao, họ có những nhân tố nội bộ như ở Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan và Việt Nam. Chính vì thế, cần phải có chính sách thắt chặt tiền tệ và quản lý tài khoá cẩn trọng.
Xin cám ơn ông!
Nguồn: Tiền Phong