Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

THÁNG 02 - 2008

06/08/2010 - 31 Lượt xem

1. Tình hình lạm phát

Diễn biến giá cả thị trường vẫn hết sức phức tạp. Ngày 27/02/2008, Tổng cục thống kê chính thức công bố Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 2 đã tăng 3,56% so với tháng 1. Như vậy, chỉ trong hai tháng đầu năm tăng 6,02% so với tháng 12 năm 2007. Giá các mặt hàng chủ lực như lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, xăng dầu, vàng đều tăng nhanh.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết nguyên nhân của tình trạng lạm phát cao kỷ lục năm 2007 và những tháng tiếp theo đầu năm 2008 là do: trong những tháng đầu năm 2007 việc đưa tiền ra mua ngoại tệ nhưng chưa rút về kịp thời, tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức cao so với năm trước và so với mục tiêu đề ra. Điều này đặt ra những thánh thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách trong việc kiềm chế lạm phát và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Năm nay dự báo kinh tế toàn cầu suy giảm, giá dầu và giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao. Hai yếu tố này chiếm tới 40% trong cơ cấu rổ hàng hoá, như vậy sẽ rất khó để chống lạm phát. Một vấn đề nữa được đặt ra là: theo quy luật thị trường, giá hàng hóa trong dịp tết thường ở mức cao nhất sau đó nhu cầu sẽ giảm dần nhưng tháng ba năm nay có nhiều yếu tố tác động khác biệt với mọi năm nên dự báo giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu không giảm mà vẫn giữ xu hướng tăng hoặc đứng ở mức cao. Giá chào gạo xuất khẩu của Thái Lan và Việt Nam trong những ngày đầu tháng 2/2008 tiếp tục tăng 50 – 51%, tình hình này sẽ ảnh hưởng đến giá lương thực trong nước. Hơn nữa, diễn biến khí hậu năm nay rất khắc nghiệt, rét đậm, rét hại kéo dài ở miền Bắc và hạn hán xảy ra trên diện rộng gây ảnh hưởng trầm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Thời gian tới, tình hình thời tiết bất lợi kéo dài, cộng với dịch cúm gia cầm đang tái phát chắc chắn càng gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế. Thêm vào đó, chi phí sản xuất đầu vào (giống, thức ăn chăn nuôi, cước vận chuyển...) tăng nên nhiều mặt hàng dù nhu cầu giảm nhưng giá vẫn đứng ở mức cao. Đặc biệt, đợt điều chỉnh tăng giá xăng dầu - nhiên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất, lưu thông - vừa qua sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội.

Trước những khó khăn cộng dồn nêu trên, Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, như chính sách thắt chặt tiền tệ, thu hút tiền trong lưu thông… nhằm kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tăng trưởng kinh tế, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Bộ Công thương sẽ phối hợp với Bộ Tài chính rà soát lại cân đối cung cầu toàn bộ 10 mặt hàng thiết yếu và thực hiện kiểm tra đối với việc hình thành giá thép, giá than, cước vận chuyển giao hàng của tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, giá xi măng, phân bón, điện để tránh độc quyền, tăng giá bất hợp lý. Đồng thời Tổ Điều hành thị trường trong nước cũng yêu cầu các ngành hàng dược phẩm, phân bón, thép, mía đường... cần chú trọng phát triển mạng lưới phân phối của mình để chủ động điều hành thị trường. Trong đó, việc đảm bảo cung cầu rất quan trọng. Chính phủ sẽ đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; tập trung chỉ đạo sâu sát sản xuất nông nghiệp, khôi phục đàn gia súc, gia cầm; thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển; đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ bản, cung ứng vốn cho các công trình ưu tiên. Đồng thời tập trung xóa đói giảm nghèo, chăm lo y tế, giáo dục; quyết liệt cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng…

Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra năm nhóm giải pháp: Một là, thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, thận trọng và chủ động; sử dụng linh hoạt các công cụ trên theo nguyên tắc thị trường để khắc phục ba tồn tại lớn của năm trước. Hai là, tiếp tục mua ngoại tệ dự trữ trên cơ sở nguồn tiền cung ứng đã được duyệt, đồng thời hút tiền về bằng nhiều công cụ phù hợp với từng thời điểm. Ba là, chính sách tỉ giá phải giữ ổn định giá trị VND nhưng cũng tính toán thuận lợi cho xuất khẩu. Bốn là, không để lãi suất âm. Năm là củng cố, lành mạnh hóa hệ thống tổ chức tín dụng và các định chế tài chính; kiểm soát cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng.

Mục tiêu của việc nâng cao tỉ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% tại các NH, bắt buộc mua tín phiếu trên 20.000 tỉ đồng và tăng lãi suất tiền gửi mà NH Nhà nước vừa triển khai là nhằm hút tiền từ thị trường về kiểm soát mức tăng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý ngay từ đầu năm. Động thái này sẽ tác động đến cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Thứ nhất, các NH phải điều chỉnh cơ cấu tín dụng, kiểm soát các khoản cho vay, đảm bảo an toàn hiệu quả. Thứ hai, lãi suất thị trường có thể tăng lên nên người vay phải tính toán chặt chẽ hiệu quả khi đầu tư, hạn chế việc đầu tư kém hiệu quả. Thứ ba, các tổ chức tín dụng cần thu hẹp một số đối tượng cho vay như kinh doanh bất động sản, chứng khoán... Như vậy, những dự án kém tính khả thi chắc chắn sẽ bị cắt giảm, góp phần hạn chế tình trạng thị trường bất động sản tăng nóng, tăng ảo. Và chính các tổ chức tín dụng, định chế tài chính cũng giảm được rủi ro, lành mạnh hóa hoạt động của họ. Tuy nhiên cần lưu ý khuyến khích hơn nữa đối với việc mở rộng tín dụng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Mặc dù giá xăng đã đột ngột tăng trong tháng 2 do Nhà nước quyết định tiến tới bỏ trợ cấp đối với xăng dầu nhưng Nhà nước không thả nổi giá cả, trong đó có giá xăng dầu, mà chỉ thay đổi phương thức quản lý. Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh nhấn mạnh, sẽ nghiên cứu để thay đổi phương thức điều hành sao cho có lộ trình thích hợp, có khoản dự phòng rủi ro khi có sự đột biến về giá cả trên thị trường thế giới. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà quản lý, chính sách tiền tệ mà Việt Nam áp dụng thời gian qua không có sai lầm nhưng vấn đề là do việc dự báo trên nhiều lĩnh vực chưa thật tốt. Công tác dự báo gặp một số hạn chế, như dự báo về sự đột biến của giá cả thế giới, về vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tăng trưởng tín dụng... dẫn đến bị động trong điều hành. Để khắc phục thực trạng trên, công tác điều hành phải kiên quyết, linh hoạt, nhịp nhàng hơn nữa; đặc biệt lưu ý đến 2 lĩnh vực là chứng khoán và thị trường bất động sản; phải kiểm soát được tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng. Về việc tăng giá điện, Bộ trưởng Bộ Tài chính khẳng định, hiện nay chưa có sự điều chỉnh về giá điện

2. Tài chính – ngân hàng

Trong tháng 2, hoạt động của Ngân hàng đã có những chuyển biến hết sức mạnh mẽ với hàng loạt các quy định mới của Ngân hàng Nhà nước:

Thứ nhất, quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% , mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho NHNN.

Thứ hai, NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ những vậy, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ.

Thứ ba, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.

Thứ tư, NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây.

Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM.

Các chuyên gia nhận định thị trường tiền tệ Việt Nam đang nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần với những mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều người nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ vỡ gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới 200% - 300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta.

Tiếp theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm khi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Đặc biệt lãi suất liên ngân hàng lập kỷ lục ngày 18/2/2008 khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên 43%/năm… Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường. Thị trường “căng“ đến mức chỉ trong 1 tuần, NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các NHTM Nhà nước, một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu NHNN và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các NHTM cổ phần thì không.

Ý kiến của các chuyên gia về tính hiệu quả của các biện pháp thắt chặt tiền tệ mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam áp dụng:

* TS Lê Đăng Doanh:

Các nhóm giải pháp chống lạm phát của Ngân hàng (NH) Nhà nước đã phù hợp với thông lệ thế giới nhưng liều lượng đợt này khá cao. Tác động của các gói giải pháp đến thị trường chứng khoán và bất động sản đã rõ. Tuy nhiên, việc giảm cung tiền, chịu ảnh hưởng lớn nhất chủ yếu là khu vực kinh tế tư nhân. Với khu vực nhà nước được hưởng các nguồn vốn ODA, vốn từ ngân sách thì giải pháp giảm cung tiền của NH Nhà nước có tác động được không? Nên có thể nói năm nhóm giải pháp của NH Nhà nước chỉ có tác động ở mức độ giới hạn đối với tình hình lạm phát hiện tại. Lạm phát thấp là cơ hội cho người nghèo, nên cần kiên trì các biện pháp chống lạm phát.Theo ông việc thắt chặt tín dụng sẽ khiến tăng trưởng kinh tế chậm lại. Tăng trưởng cao cần sự cố gắng vượt bậc không chỉ ở tăng vốn. VN còn nhiều tiềm năng tăng trưởng khác, đó là nâng cao năng suất lao động, đặc biệt là hiệu quả đầu tư...

* PGS. TS Nguyễn Văn Nam:

Giảm cung tiền sẽ giúp giảm lạm phát nên biện pháp tiền tệ đi đầu là đúng. Nhưng chỉ giao cho NH thực thi là chưa đủ. Phải cần các biện pháp tài chính khác, bởi đóng góp không nhỏ vào lạm phát là chi tiêu ngân sách, chi tiêu của Chính phủ, đầu tư kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước... Bên cạnh giảm cung tiền thì phải làm sao cho đồng tiền khi chi tiêu đem lại hiệu quả cao hơn mới giúp phòng và chống lạm phát bền vững. Theo ông các giải pháp của NH có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng, đầu tư... trong ngắn hạn nhưng nó có tác dụng tích cực cho nền kinh tế trong tương lai.

* TS Vũ Đình Ánh:

Theo ông, mức độ của các biện pháp chống lạm phát là vừa đủ và không quá sốc với nền kinh tế Việt Nam. Việc buộc các NH mua trên 20.000 tỉ đồng tín phiếu cũng phù hợp với trình độ quản lý, bối cảnh thị trường. Tới đây, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp khó và đắt hơn. Nhưng cũng cần coi đây là cơ hội khuyến khích, động viên các doanh nghiệp đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn. Thay vì trông vào NH, họ phải khai thác từ thị trường chứng khoán hoặc từ các kênh khác.

* TS Phạm Đỗ Chí:

Việc chống lạm phát gia tăng phải là ưu tiên số 1 của nền kinh tế. Mục tiêu tăng GDP 9% trong năm 2008, tăng xuất khẩu, hay làm sống lại và phát huy hơn nữa thị trường chứng khoán... cần phải gia giảm trong mối quan hệ tương tác mà mục tiêu số 1 cho phép. Theo đó, phải rà soát mục tiêu tăng trưởng GDP hằng năm theo hướng thấp và ổn định hơn cho đến khi nào lạm phát được đem lại mức 5-6%. Để giảm tổng cầu của nền kinh tế thì phải giảm bớt ít nhất 1% trong tỉ lệ đầu tư công/GDP (đang ở mức cao trên 40%). Theo ông, cùng với việc tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc hạn chế mở rộng tiền tệ và tín dụng, đặc biệt tăng lãi suất cho vay trong hệ thống NH, nên thay dần tín phiếu bắt buộc cho các NH bằng phát hành trái phiếu sáu tháng trả lãi cao (12%/năm, sát tỉ lệ lạm phát năm 2007). Trái phiếu này có thể được gia hạn mỗi sáu tháng với lãi suất được thay đổi linh động tùy theo mức lạm phát trong năm 2008...

3. Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán trong tháng cũng chứng kiến những diễn biến rất sôi động. Sự sụt giảm của thị trường đang gây ra tâm lý hoang mang trong giới đầu tư. Tuy có những tín hiệu lạc quan từ Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước về hỗ trợ sự phát triển của thị trường chứng khoán nhưng thị trường vẫn liên tục sụt giảm. Chỉ số VN-index trên sàn thành phố Hồ Chí Minh xuống mức thấp kỷ lục 663,30 điểm ngày 29/02/2008, trong khi đó chỉ số HASTC trên sàn Hà Nội xuống kịch sàn ngày 29/02/2008 và đạt mức 228,24 điểm. Đáng chú ý là VN-Index giảm tới 130 điểm trong tuần thứ hai, đánh dấu mất 500 điểm trong vòng một năm trở lại đây - điều chưa từng có trong lịch sử 8 năm hoạt động. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, thị trường chứng khoán sẽ còn biến động nhiều trong tháng 3.

Thị trường sụt giảm là do 3 nguyên nhân. Thứ nhất, việc tăng dự trữ bắt buộc, kế hoạch phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, Quyết định 03 thay thế Chỉ thị 03 về cho vay đầu tư chứng khoán của Ngân hàng Nhà nước đã tác động mạnh đến cả thị trường ngân hàng lẫn chứng khoán, Thứ hai, nguồn cung dồn dập từ các đợt IPO lớn, doanh nghiệp phát hành thêm, thậm chí cả trả cổ tức, thưởng cổ phiếu cũng trở nên đáng ngại. Thứ ba, là yếu tố tâm lý. Đà giảm quá sâu và kéo dài dẫn đến một thực trạng là mua hôm nay lỗ ngay ngày mai, cùng với những định hướng chính sách thiếu cụ thể và hiện thực đẩy tâm lý nhiều nhà đầu tư vào hoang mang, mất niềm tin.

Các nhà đầu tư nhận định thị trường chuẩn bị mở đầu tháng mới với những tín hiệu từ phiên họp thường kỳ của Chính phủ (định hướng tiếp tục cho vay đầu tư chứng khoán, tiếp tục hỗ trợ thị trường phát triển ổn định) và cả tin đồn về việc mở “room” tại các ngân hàng. Về các mốc kỹ thuật, theo nhận định của Công ty Chứng khoán FPT (FPTS), 710 điểm sẽ trở thành mức kháng cự đáng kể trong tháng 3, trong khi mức chặn dưới 590 của biên dưới được coi như một mức hỗ trợ hợp lý. Vượt lên trên 710 điểm, VN-Index sẽ có cơ hội đảo chiều để rộng đường tiến tới 800 điểm. Ngược lại, nếu xuống sâu hơn 590 điểm (một cách chắc chắn), thì khả năng nhà đầu tư cần tính đến phương án cơ cấu lại danh mục đầu tư trong dài hạn là không thể tránh khỏi. Về các yếu tố vĩ mô, như đã nói ở trên, lạm phát vẫn là quan ngại lớn nhất hiện nay. Sau lạm phát là sức ép đối với Ngân hàng Nhà nước trước các biện pháp mạnh hơn trong thắt chặt tiền tệ. Lãi suất trên thị trường ngân hàng dự báo vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao, thị trường vàng đầu tư tiếp tục hấp dẫn sẽ thu hút đáng kể dòng vốn của thị trường chứng khoán. Tâm lý của nhà đầu tư đã trải qua một chuỗi thất vọng và hoang mang. Khi hướng phục hồi chưa hé mở, tháng 3 sẽ chứng kiến đà bán ra mạnh mẽ theo hướng cơ cấu lại danh mục của nhiều nhà đầu tư, vốn đã bám trụ trong thời gian qua; đáng lo ngại hơn là khả năng nhiều người trong số họ sẽ tạm rời bỏ thị trường để chuyển sang các kênh đầu tư khác.

Trước tình trạng suy giảm trên, Ủy ban chứng khoán nhà nước đã xây dựng một chương trình hành động cho năm 2008 nhằm phục hồi và phát triển thị trường. Trong đó đưa ra nhiều giải pháp nhằm duy trì và phát triển thị trường chứng khoán hoạt động an toàn và hiệu quả với 4 mục tiêu tổng quát. Thứ nhất, duy trì hoạt động thị trường chứng khoán an toàn, ổn định, bền vững, đưa mức vốn hoá của thị trường kên khoản 50% GDP năm 2008. Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý, thể chế và chính sách để phát triển thị trường chứng khoán. Thứ ba, hoàn thiện hệ thống tổ chức thị trường thông qua việc đưa vào hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết, thị trường trái phiếu chuyên biệt và nghiên cứu triển khai áp dụng một số nghiệp vụ mới. Thứ tư, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin ngành chứng khoán theo hướng giao dịch điện tử để tăng cường giao dịch và kiểm soát trên thị trường.

Để thực hiện được 4 mục tiêu trên, Uỷ ban chứng khoán đã đưa ra 7 nhóm công việc lớn cần triển khai bao gồm:

Nhóm thứ nhất: hoàn thiện khung pháp lý và thể chế chính sách để hỗ trợ thị trường chứng khoán. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước sẽ xem xét những gì phù hợp và kiến nghị sửa đổi bổ sung theo hướng thông thoáng hơn cho thị trường, xây dựng khung pháp lý hoạt động của thị trường của các công ty đại chúng chưa niêm yết; quy chế tổ chức hoạt động của quỹ đầu tư dạng mở; quy chế tổ chức và họat động của công ty đầu tư chứng khoán phát hành riêng lẻ... Đồng thời cũng nghiên cứu đưa vào áp dụng các quy định về chào mua công khai, giao dịch ký quỹ, repo, mở nhiều tài khoản giao dịch chứng khoán, mua bán chứng khoán trong cùng phiên giao dịch...

Nhóm thứ hai: tăng cường quản lý hàng hóa cho thị trường chứng khoán gồm: triển khai việc đăng ký lưu ký tập trung của các công ty đại chúng; Bộ Tài chính sẽ phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước để hoàn thiện quy trình trong việc chào bán chứng khoán ra công chúng của các tổ chức bảo hiểm, ngân hàng thương mại; nghiên cứu để trình Thủ tướng Chính phủ về định giá doanh nghiệp theo phương thức “book building price” và cơ chế đàm phán, chào bán thỏa thuận cho các đối tác chiến lược khi thực hiện IPO cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hóa...

Nhóm thứ ba: tăng cường quản lý, giám sát các định chế trung gian trên thị trường chứng khoán, trong đó đặc biệt xây dựng quy định về quản trị công ty và quy trình kiểm sóat nội bộ công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; triển khai việc quản lý tiền giao dịch chứng khóan của nhà đầu tư tại ngân hàng thương mại; tăng cường quản lý, giám sát các định chế trung gian, các văn phòng đại diện tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.

Nhóm thứ tư: hoàn thiện hệ thống tổ chức thị trường. Trong quý 2/2008 Ủy ban Chứng khoán sẽ trình Bộ và Thủ tướng việc chuyển đổi Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán sang mô hình doanh nghiệp theo Luật Chứng khoán; nâng cấp hệ thống để triển khai hệ thống giao dịch từ xa, giao dịch trực tuyến tại Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; đưa vào hoạt động thị trường giao dịch cổ phiếu đại chúng chưa niêm yết; thị trường trái phiếu chuyên biệt...

Nhóm thứ năm: tăng cường quản lý giám sát thị trường chứng khoán, đặc biệt là kiện toàn hoạt động của tổ chức giám sát, xây dựng quy chế và các tiêu chí giám sát trên thị trường chứng khoán, xây dựng quy trình thanh tra và xử lý vi phạm về công bố thông tin...

Nhóm thứ sáu: đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán.

Nhóm thứ bảy: tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về thị trường chứng khoán.

Tuy nhiên, sẽ mất khoảng 2-3 tháng mới có thể áp dụng được các thay đổi trên.

4. Diễn biến của thị trường Bất động sản

Thị trường Bất động sản (BĐS) trong tháng 2 cũng trải qua nhiều biến động khi có thông tin Ngân hàng Nhà nước sẽ ban hành chỉ thị “siết” tín dụng cho vay kinh doanh BĐS. Vào cuối tháng 2 thị trường BĐS đã có dấu hiệu chững lại sau một thời gian tăng trưởng nóng. Việc siết chặt tín dụng với BĐS được nhận định là sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển của thị trường. Đồng thời tạo ra những khó khăn cho các nhà kinh doanh BĐS trong nước khi mà hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, hạn chế về lượng vốn. Trong khi đó việc siết tín dụng với BĐS sẽ làm lợi cho các Quỹ, doanh nghiệp nước ngoài có nhiều lợi thế về vốn và không bị tác động của việc siết chặt tín dụng của Ngân hàng trong nước. Các chuyên gia dự báo thị trường BĐS có nguy cơ đóng băng ngay sau khi động thái “siết” các khoản cho vay liên quan đến BĐS được các Ngân hàng áp dụng do đây là thị trường vốn rất nhạy cảm về thông tin. Sau một thời gian ngắn, nếu thông tin về “siết” cho vay lắng xuống, thị trường sẽ lại phục hồi. Do đó, nếu các cơ quan quản lý nhà nước ban hành một đạo luật thực sự về “siết” cho vay, thị trường BĐS sẽ chao đảo bởi hơn 90% những người đầu tư BĐS, thậm chí những người mua nhà để ở hiện tại đều phải sử dụng nguồn vốn ngân hàng.

Cho đến thời điểm hiện tại, dù chưa có động thái chính thức nào từ Ngân hàng Nhà nước về việc siết tín dụng cho vay với BĐS, song do đi tắt đón đầu cùng với thực tế cạn tiền đồng, nhiều ngân hàng đã bắt đầu siết tín dụng, đặc biệt là các khoản cho vay liên quan đến BĐS, gây xáo trộn trên thị trường BĐS. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh BĐS lo ngại nếu thực sự Ngân hàng Nhà nước có một chỉ thị về siết cho vay BĐS tương tự như Chỉ thị 03 về khống chế cho vay đối với thị trường chứng khoán, khó tránh khỏi khả năng thị trường BĐS bị đóng băng.

Một vấn đề khác là trong khi thị trường BĐS đang thiếu nguồn cung trầm trọng nhưng vì sự nhiêu khê của các thủ tục, nên nhiều doanh nghiệp không thể thực hiện dự án để tăng nguồn cung cho thị trường, một giải pháp quan trọng để bình ổn thị trường hiện nay.

5. Doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu có quyền tự quyết về giá.

Ngày 25/02/2008 Liên bộ Tài chính và Công thương đưa ra tuyên bố doanh nghiệp chính thức được tự quyết định giá bán xăng. Giá dầu sẽ được điều chỉnh tiệm cận giá dầu thế giới. Ngân sách nhà nước sẽ không bù lỗ cho xăng dầu qua giá mà để thị trường tự điều tiết. Như vậy, cơ quan điều hành sẽ không áp đặt mức giá xăng khống chế; thay vào đó, các DN chủ động tính toán và quyết định mức giá trên nguyên tắc không lỗ, liên bộ sẽ chỉ giám sát việc thực hiện cơ chế giá này bằng những quy định về biện pháp xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm. Theo phân tích, có quá nhiều lý do để tăng giá xăng dầu và việc cầm chân giá các mặt hàng này là bất khả kháng. Các DN thời gian qua đã lỗ nặng đến hàng ngàn tỉ đồng; nếu không cho tăng giá thì nguy cơ thiếu tiền dẫn tới thiếu nguồn cung là rất lớn. Bên cạnh đó có thể nói, VN đã đi quá chậm trong việc đưa kinh doanh xăng dầu tuân theo quy luật của cung cầu thị trường điều đó gây khó khăn trong điều hành, bất lợi cho nền kinh tế, tạo những bất bình đẳng về lợi ích không đáng có.

Về mặt vĩ mô Nhà nước từ nay sẽ không phải đau đầu với con số hàng chục ngàn tỉ đồng mỗi năm bù lỗ hay hỗ trợ DN. Nguồn tiền lớn này thay vì hỗ trợ gián tiếp cho DN thì từ nay sẽ hỗ trợ trực tiếp đến người dân chịu sức ép của tăng giá xăng dầu. Việc Nhà nước bỏ bù lỗ cho xăng dầu sẽ ngăn chặn được tình trạng buôn lậu. Đặc biệt từ nay doanh nghiệp sẽ có toàn quyền chủ động kinh doanh mà không phải chạy theo chính sách. Bên cạnh đó thị trường cơ bản có được môi trường cạnh tranh mà ở đó doanh nghiệp buộc phải đổi mới quản lý, tiết kiệm chi phí, còn người tiêu dùng thì phải tiết kiệm tiêu dùng, được lựa chọn mức giá cạnh tranh. Song mặt khác, chúng ta cũng phải đối mặt với hàng loạt các khó khăn. Như: hàng loạt các lĩnh vực kinh doanh khác sử dụng xăng dầu rất có khả năng cũng sẽ tăng giá trong tương lai gần. Với câu hỏi, việc tăng giá trên sẽ tác động như thế nào đối với nền kinh tế, Bộ trưởng Ninh cho biết, con số dự đoán là có thể tác động tăng khoảng 0,4% - 0,5% chỉ số giá tiêu dùng.

6. Cảnh báo về khủng hoảng tài chính

Theo các chuyên gia phân tích kinh tế thế giới, ở Việt Nam đang xuất hiện 4 dấu hiệu từng là nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoản tài chính châu Á 1997. Thứ nhất, mặc dù thị trường chứng khoán đã phát triển rất nhanh trong thời gian qua nhưng hệ thống tài chính của Việt Nam vẫn chịu sự chi phối bởi các ngân hàng thương mại không được kiểm soát một cách hiệu quả với lượng nợ xấu khá lớn. Thứ hai, đầu tư quá mức (gần 40% GDP) và hệ số ICOR 4,4 là rất cao so với các nước khác trong khu vực ở những giai đoạn phát triển tương đương như Việt Nam hiện nay (hệ số ICOR trung bình của các nước trong khu vực là khoảng 3). Thứ ba, một lượng tiền lớn có nguồn gốc tham nhũng, rửa tiền, và đầu tư nước ngoài đang đổ vào thị trường bất động sản và chứng khoán, tạo nên bong bóng tài sản. Thứ tư, thâm hụt thương mại tăng nhanh và tỷ giá dao động bất thường là những dấu hiệu của những rủi ro ngầm ẩn. Việt Nam cũng đang tích luỹ một lượng lớn nợ ngoại tệ không được phòng vệ. Theo các chuyên gia trong 10 triệu chứng dẫn đến khủng hoảng 1997 thì 8 triệu chứng Việt Nam bị “dính” gồm: thâm hụt tài khoản vãng lai, bong bóng tài sản, vay ngoại tệ không phòng vệ, hệ số ICOR cao, đầu tư công kém hiệu quả, kiểm soát bất cân đối với ngân hàng, nợ xấu cao, vay nợ chéo trong tập đoàn. Nhóm chuyên gia cho biết những rủi ro trên chưa dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính là nhờ Việt Nam vẫn chưa tự do hóa tài khoản vốn, dư nợ nước ngoài ngắn hạn của Việt Nam còn ở mức kiểm soát được, và lượng vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang tiếp tục đổ vào giúp cân đối lại phần nào cán cân tài khoản vãng lai.

7. Dự thảo thay đổi luật thuế của Bộ tài chính.

Trong tháng 2, Bộ tài chính trình Chính Phủ và Quốc hội về việc thay đổi một số dự luật thuế theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp. Đó là các Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là những luật thuế tác động trực tiếp và nhiều nhất tới các doanh nghiệp. Theo Bộ tài chính, sự thay đổi một số luật thuế này không nhằm mục đích gì khác ngoài việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi, khuyến khích thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Hiện các nước trong khu vực đều đã giảm hoặc có lộ trình giảm nhiều khoản thuế cho doanh nghiệp, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Việt Nam muốn cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài thì việc giảm một số loại thuế, nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp là điều phải làm ngay.

Về Luật Thuế giá trị gia tăng, sẽ có thêm nhiều hàng hoá dịch vụ xuất khẩu được áp dụng mức thuế suất 0%. Ngoài ra sẽ áp dụng 2 mức thuế suất 5% và 10% với nhiều loại hàng hoá dịch vụ nhập khẩu khác nhau. Mức 5% sẽ áp dụng chủ yếu cho hàng hoá dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng hoá tiêu dùng thiết yếu của nhân dân... Mức thuế 10% sẽ áp dụng nhiều cho các loại hàng hoá không nằm trong mức thuế 5%. Như vậy, lần sửa đổi này đối với Luật Thuế giá trị gia tăng cũng chỉ dừng lại ở việc mở rộng đối tượng hàng hoá dịch vụ được áp dụng. Ngoài ra Bộ Tài chính cũng có những đề xuất sửa đổi áp dụng đối với thuế giá trị gia tăng với những đối tượng không chịu thuế, sửa dổi về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, về hoàn thuế giá trị gia tăng...

Về Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, hiện Bộ đang xem xét việc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt với mặt hàng ôtô, thuốc lá, rượu bia. Việc giảm thuế nhập khẩu này nhằm thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo cam kết gia nhập WTO.

Về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, trong các luật thuế sẽ trình thay đổi trong năm 2008 thì thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ có những thay đổi lớn nhất. Hiện nay mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông là 28% (trừ các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư), Bộ Tài chính đang dự định giảm xuống mức 25%. Ngoài ra các doanh nghiệp này còn được hưởng các ưu đãi về thời gian được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ được tính từ khi doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế, điều này đặt ra nhiều thách thức trong việc kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan thuế. Đây là những điểm cần được chú ý thay đổi cùng với việc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2008.

Nguồn: VNEP, tháng 02/2008


Các bài báo tham khảo.

1. Năm nhóm giải pháp chống lạm phát – 21/02/2008 - Tuổi trẻ, Quang Thiện

2. “7 nhóm việc lớn của Ủy ban Chứng khoán” - 20/022008 - Thời báo kinh tế Việt Nam, Lan Hương

3. "Siết" tiền, đúng nhưng chưa đủ - 22/02/2008 - Tuổi Trẻ, C.V.Kình

4. Lãi suất Ngân hàng đang ở mức cực kỳ nguy hiểm –25/02/2008, Vietnamnet, Phương Nam

5. Việt Nam và 4 dấu hiệu khủng hoảng tài chính - 21/02/2008 - Thời báo kinh tế Việt Nam, Thùy Trang

6. Xăng, dầu tăng giá: Gánh nặng oằn vai người tiêu dùng – 26/02/2008 – Lao Động, Anh Xuân

7. Kiềm chế giá tiêu dùng, khó khăn bội phần – 29/02/2008 – Báo Thương Mại, Thuận Ánh.

8. Nhà nước không thả nổi giá cả - 29/02/2008 – Website Chính Phủ, Hải Liên

9. Thị trường Bất động sản … chùng chân, 27/02/2008 – Báo Đầu tư, Châu kỳ

10. Có thể giảm nhiều loại thuế - 18/02/2008 – TBKT Việt Nam, Công Lý

11. Chứng khoán “lình xình” đến hết tháng 3? – 03/03/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Hoàng Vũ