Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Kiềm chế lạm phát: Quyết tâm đang bị thử thách (19/03)

06/08/2010 - 44 Lượt xem

Đã có quá nhiều bài viết của các nhà phân tích đăng tải trên báo chí và các phương tiện truyền thông cho thấy điều này. Một trong những nhận định đáng chú ý là của ông Jonathan Pincus, Kinh tế gia Trưởng của Cơ quan Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam.

Trả lời tờ báo có uy tín của Anh Financial Times, ông nói rằng đã có sự “chủ quan” sau khi Việt Nam khá thành công trong kinh tế những năm qua. Sự chủ quan này, theo ông, do “không phải là không nắm rõ những vấn đề đang xảy ra mà là chưa có được các cơ quan đủ kinh nghiệm và phối hợp đủ tốt để đối phó với các thay đổi nhằm đạt ổn định về kinh tế”.

Vị chuyên gia giàu kinh nghiệm này cho rằng, để giải quyết khó khăn, cho đến nay chúng ta chủ yếu dựa vào các giải pháp tiền tệ nhưng không áp dụng kiềm chế đối với các công ty nhà nước mà rất nhiều trong số đó đã đầu tư phung phí. Nhìn về tương lai, ông cảnh báo rằng sự thu hút của Việt Nam như một điểm đến đầu tư có thể bị xói mòn nếu không có sự điều phối tốt hơn về chính sách kinh tế để xử lý vấn đề lạm phát và bảo đảm sự ổn định lâu dài. Nếu không có sự kiềm chế tài chính quyết liệt hơn từ phía Chính phủ và các công ty có thế lực mạnh, thì những gì mà chúng ta đang làm sẽ là một loạt sức ép đối với các ngân hàng, các hộ gia đình và những người kinh doanh.

Nhận định này dường như trùng hợp với những diễn biến có tính quy luật là tăng trưởng mạnh đi đôi với lạm phát cao, và trong chừng mực cho thấy sự lúng túng của các cơ quan trách nhiệm điều hành vĩ mô thời gian qua trước tình hình này.

Chẳng hạn như trong khi Ngân hàng Nhà nước muốn siết nguồn cung về lưu thông tiền đồng thì Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại tăng chi cho ngân sách và tăng cho đầu tư công.

Trong khi đang nỗ lực chống tình trạng đôla hóa nền kinh tế thì lại cho tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phiếu của công ty trong nước bằng ngoại tệ.

Hay như gần đây quyết định của ngân hàng về các biện pháp chống lạm phát đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi của các chuyên gia trong và ngoài nước, mà phần lớn tỏ ra không đồng tình về các quyết định có tính cách hành chính hơn là tuân theo các quy luật cung cầu của kinh tế thị trường.

Để ngăn chặn những hậu quả từ cơn bệnh đang gây ra cho nền kinh tế, ngày 3/3 Chính phủ đã đưa ra một gói các giải pháp liên quan đến nhiều lĩnh vực được xem là có tính đồng bộ, mà nội dung nhằm kiềm chế lạm phát đang tăng trưởng nhanh đến hơn 6% trong hai tháng đầu năm, siết lại chi tiêu công, vực dậy thị trường chứng khoán và phát triển thị trường bất động sản theo hướng lành mạnh hơn. Có thể nhận ra một số biện pháp cụ thể:

 - Về chi tiêu công thì những công trình, dự án đọng vốn quá lâu hoặc đầu tư kém hiệu quả phải được xem xét lại, cùng lúc với việc thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng chi tiêu ngân sách đi đôi với chính sách tiền lương, chính sách đầu tư và xuất nhập khẩu.

 - Để vực dậy thị trường chứng khoán, giải pháp được chỉ đạo là Ngân hàng Nhà nước tiếp tục mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư, đồng thời nghiên cứu phát hành thêm trái phiếu chính phủ. Trong cố gắng không để thị trường chứng khoán đi xuống, Chính phủ cho thấy không hề có ý thu hẹp thị trường này mà đưa ra những biện pháp cứu vãn, trong đó có việc cho phép Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) mua vào một lượng đáng kể các cổ phiếu loại tốt, có tính thanh khoản cao. Chính phủ cũng chỉ đạo đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa và IPO.

 - Với thị trường bất động sản, Thủ tướng chỉ thị phải tạo điều kiện cho thị trường này phát triển lành mạnh bằng các giải pháp tiền tệ, tín dụng nhưng phải chống đầu cơ bất động sản thông qua việc kiểm soát các khoản vay, chính sách thuế và các biện pháp hành chính cần thiết. Đối với các dự án tốt thì ngân hàng tiếp tục hỗ trợ, nhưng nếu có biểu hiện găm giữ, đầu cơ mua đi bán lại thì phải thu hồi vốn và kiên quyết xử lý, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước không có chức năng tham gia thị trường này.

Đã có những phản hồi khác nhau về các biện pháp trên của Chính phủ. Với thị trường chứng khoán, thông tin về việc SCIC mua cổ phiếu trên cả hai sàn giao dịch Hà Nội và TP.HCM đã giúp chỉ số VN-Index vươn lên 640,14 điểm vào ngày 7/3, sau khi rớt xuống tận đáy 583 điểm vào ngày 28-2.

Tuy vậy các nhà phân tích vẫn cho rằng đây không phải là giải pháp lâu dài mà chỉ có tác dụng giải quyết vấn đề tâm lý ngắn hạn cho một số nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ hết sức lo lắng về những khoản tiền ít ỏi đang đóng băng trên thị trường. Sự tham gia của SCIC vào lúc giá cổ phiếu xuống thấp nhất chắc chắn sẽ mang lại cùng lúc hai điều có ích cho Tổng công ty này, một là lợi nhuận có được khi thị trường phục hồi sức khỏe và hai là thực hiện được nhiệm vụ “cứu giá” mà Chính phủ đã giao cho.

Đây là điều đáng lo ngại vì sự can thiệp của SCIC - tức của Nhà nước - có thể làm nhiều nhà đầu tư hoài nghi về cái gọi là “giá thị trường” của chúng ta không phản ánh giá trị thực của chứng khoán. Chúng ta đều biết SCIC là một doanh nghiệp nhà nước có chức năng kinh doanh đồng vốn, đang có trong tay nhiều cổ phiếu hơn là tiền mặt và không phải là một quỹ điều phối thị trường. Nay đảm nhiệm việc “cứu giá” thì phải đưa vào bao nhiêu tiền mới đủ, và cứu doanh nghiệp nào trên thị trường là một sự chọn lựa không giản đơn.

Về lâu dài, sự có mặt của SCIC trên thị trường thứ cấp không hề làm tăng thêm khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp đã niêm yết, vốn là động cơ giúp doanh nghiệp phát triển, từ đó tác động dây chuyền vào cổ phiếu của họ trên thị trường, tức là làm tăng thêm kỳ vọng của nhà đầu tư vào cổ phiếu.

Với thị trường bất động sản, chúng ta đều nhận ra một cơn lốc giá đã nổi lên khi thị trường chứng khoán đi xuống. Sự tăng giá nhà đất quá nhanh giúp nhiều nhà đầu tư thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ nhờ phân lô dự án và những nhà đầu cơ nhỏ đã giàu lên nhờ may mắn. Phần lớn tiền đầu tư địa ốc là các khoản vay ngân hàng dưới hình thức mua nhà, mua đất trả góp.

Số liệu chưa đầy đủ cho thấy khoảng 40.000 tỉ đồng đã đổ vào thị trường bất động sản trong năm qua. Nay với các biện pháp kiểm soát tín dụng để chống đầu cơ, đồng thời áp dụng các chính sách điều tiết vĩ mô như tiền tệ, thuế lũy tiến, có nhiều khả năng giá nhà đất sẽ nhanh chóng hạ nhiệt vì các nhà đầu cơ chắc chắn phải bung hàng để có tiền trả nợ. Vấn đề còn lại ở đây là không để cho tình trạng vỡ bong bóng trên thị trường địa ốc xảy ra gây hậu quả nặng nề cho hệ thống ngân hàng và đảo lộn các kế hoạch giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp.

Chính phủ tỏ ra hy vọng rồi đây việc điều chỉnh quy hoạch, rà soát lại các danh mục đầu tư, dự án, để gia tăng nguồn cung bất động sản sẽ tạo sư cân bằng và phát triển mạnh cho thị trường này. Ở đây còn có vai trò rất quan trọng của các ngân hàng và Bộ Tài chính qua các giải pháp về vốn.

Đối với đầu tư công thì đây là một vấn đề lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được. Khi nói đến lạm phát, người ta thường nhắc đến yếu tố tiền tệ mà không chú ý nhiều đến vấn đề đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, tức đầu tư của Nhà nước, sử dụng lượng tiền rất lớn nhưng đa số lại không phát huy hiệu quả cũng như làm thất thoát rất nhiều. Số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy, năm 2007 đầu tư công chiếm 200.000 tỉ đồng trong số 461.000 tỉ đồng đầu tư của toàn xã hội (số còn lại là của khu vực tư doanh và đầu tư của nước ngoài).

Nguyên nhân tình trạng nóng và thủng thị trường tiền tệ là do bội chi ngân sách, đầu tư kém hiệu quả diễn ra từ ba bốn năm nay. Hàng năm các chuyên gia đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi nhẹ vấn đề này.

Thất thoát và lãng phí thì đã rõ, qua nhiều cuộc hội nghị tổng kết, Chính phủ đã thừa nhận tỷ lệ thất thoát trong đầu tư của nhà nước là 30%. Nếu con số này chính xác thì trong năm qua đã có 60.000 tỉ đồng “bay nhảy” trong khâu lưu thông, làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát.

Mới đây, theo nghiên cứu của các nhà kinh tế Đại học Harvard (Mỹ) chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2007 là 4,7, nghĩa là trong nền kinh tế của chúng ta muốn tăng 1% GDP thì phải tăng 4,7% vốn đầu tư. Đó là một chỉ số quá cao so với ICOR thông thường của các nước, chỉ từ 1,2 đến 2 mà thôi.

Vẫn còn quá sớm để đánh giá hiệu quả của các biện pháp kiềm chế lạm phát vừa được Chính phủ ban hành, nhất là trong tình hình giá cả thị trường thế giới đang có nhiều biến động không thuận lợi.

Lại thêm một lần nữa, quyết tâm của Chính phủ đang được thử thách
Nguồn: Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần