
THÁNG 03 - 2008
06/08/2010 - 32 Lượt xem
TỔNG HỢP TIN KINH TẾ NỔI BẬT
- Tăng trưởng kinh tế và lạm phát
a) Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong quý I/2008 đạt 7,4%. Thấp hơn tốc độ tăng trưởng của quý I/2007 (7,8%) nhưng cao hơn cùng kỳ các năm trước (2004 – 7%, 2005 – 7,3%, 2006 - 7,1%). Đây là một kết quả đáng mừng trong điều kiện nền kinh tế nước đang gặp phải nhiều thách thức và kinh tế thế giới suy giảm hiện nay. Theo dự báo của các chuyên gia cả trong và ngoài nước, kinh tế thế giới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Dự báo mới nhất của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2008 chỉ tăng 4,1% so với 4,9% năm 2007 và 5% năm 2006. Sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế thế giới, nhất là nguy cơ suy thoái và lạm phát của nền kinh tế Mỹ kéo theo sự suy giảm về thương mại, đầu tư… sẽ tác động đến tất cả các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt tác động mạnh đến các nền kinh tế đang phát triển, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.
Đối với nước ta, hơn 80% vật tư nguyên liệu phải nhập khẩu, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu gấp 1,7 lần GDP, 35% vốn đầu tư huy động từ nước ngoài thì sự suy giảm của kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế lớn trên thế giới và khu vực sẽ tác động trực tiếp đến các mặt hoạt động kinh tế trong nước, nhất là việc thúc đẩy xuất khẩu và huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển. Do vậy, Chính phủ cho rằng phải điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng và chỉ số lạm phát năm 2008 phù hợp với tình hình mới. Trong đó, chú trọng ưu tiên kiềm chế lạm phát, duy trì khả năng tăng trưởng (cố gắng ở mức 7.5%) và đảm bảo an sinh xã hội, trợ giúp các gia đình chính sách, người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
b) Tình hình lạm phát
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3.2008 đã tăng tới 2,99% so với tháng trước, đưa CPI 3 tháng đầu năm lên mức 9,19% so với tháng 12/2007 (tháng 2 tăng 3,56%; tháng 1 tăng 2,38%) đưa mức tăng CPI so với cùng kỳ năm 2007 lên tới 19,39%. Trong các nhóm hàng hóa tăng giá đáng chú ý là sự tăng của các nhóm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống , nhóm hàng lương thực – thực phẩm, vật liệu xây dựng, nhóm hàng phương tiện đi lại và bưu điện… Tình trạng lạm phát cao đã ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống xã hội, gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải…, đẩy một số doanh nghiệp đến nguy cơ phá sản khi giá nguyên vật liệu đầu vào tăng giá quá nhanh so với dự toán ban đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng. Tình trạng làm phát cao còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống của đại bộ phận dân cư, làm giảm chất lượng cuộc sống đặc biệt là nhóm dân cư ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các nhóm có thu nhập thấp. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, với đà tăng của CPI như hiện nay, rất khó có khả năng kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế, như mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra.
Trước tình trạng tăng giá nhanh của vật liệu xây dựng, nguyên vật liệu đầu vào của nền kinh tế gây ảnh hưởng lớn tới tiến độ sản xuất và kinh doanh. Hiệp hội thép Việt Nam (VSA) đã cam kết không tăng giá sắt thép trong tháng 3 trong điều kiện giá phôi thép nhập khẩu thấp hơn 900 USD/tấn. Trong trường hợp giá phôi thép nhập khẩu tăng trên mức 900 USD/tấn, các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng sẽ bàn thảo với VSA về việc điều chỉnh giá bán hợp lý trên nguyên tắc duy trì tái sản xuất nhưng không gây sốc cho thị trường. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo từ nay đến tháng 6/2008 giữ ổn định và không tăng giá xăng dầu, trừ trường hợp đột biến; giữ nguyên thuế nhập khẩu ở mức 0% như hiện nay, chấp nhận bù lỗ, trong đó ưu tiên hỗ trợ xăng dầu cho những đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, ngư dân đánh bắt xa bờ… gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó Thủ tướng cũng yêu cầu từ nay đến tháng 6/2008 không tăng giá hàng hóa và dịch vụ thiết yếu gồm: vé tàu hỏa, máy bay, xe buýt, nước sạch, xi măng, than, điện, thuốc chữa bệnh, học phí và viện phí. Đây là một yếu tố quan trọng đối với các doanh nghiệp trong hoàn cảnh hiện nay. Động thái này của chính phủ nhằm ổn định hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp tránh tình trạng gây “sốc” liên tiếp cho nền kinh tế.
Trong phiên họp thường kỳ Chính Phủ tháng 3/2008. Thủ tướng chính phủ đã khẳng định ưu tiên hàng đầu hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thủ tướng nhất chí với các biện pháp được đưa ra, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến 8 biện pháp sau:
Một là, phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển.
Hai là, về chính sách tài khóa, phải phấn đấu tăng thu, thắt chặt chi tiêu công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước; hạn chế bội chi ngân sách, không mở rộng thêm các khoản chi; rà soát lại các dự án đầu tư, loại bỏ các dự án đầu tư không hiệu quả, giãn tiến độ các dự án chưa khởi công hoặc mới khởi công.
Ba là, bảo đảm cân đối cung cầu đối với các loại vật tư quan trọng như: Xăng dầu, điện, xi măng, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu và các hàng tiêu dùng thiết yếu như lương thực, thực phẩm…
Bốn là, tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, không cho đầu cơ tăng giá, đặc biệt là các mặt hàng thép, vật liệu xây dựng, lương thực, phân bón.
Năm là, thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu và giảm nhập siêu, nhất là đối với các ngành hàng Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế như: Thủy sản, dệt may, giầy da… tập trung tháo gỡ ngay các khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhất là việc chuyển ngoại tệ thành VNĐ và tình trạng thiếu vốn tín dụng…cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Sáu là, tháo gỡ mọi khó khăn vướng mắc, bảo đảm cho đầu tư và sản xuất kinh doanh phát triển ổn định, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nhất là chăn nuôi.
Bảy là, thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ người nghèo bị thiệt hại do thiên tai và do giá tăng đột biến trong thời gian qua; tiếp tục tập trung thực hiện các biện pháp hỗ trợ nông dân bị thiệt hại trong đợt rét đậm, rét hại vừa qua; hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn cho sản xuất, đời sống nhân dân do điều chỉnh tăng giá, trước hết là đối với người nghèo, vùng miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác; biến khó khăn thành các thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tám là, các cấp các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải tích cực triển khai thực hiện tốt các chính sách và giải pháp chống lạm phát, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống đầu cơ tăng giá. Các phương tiện thông tin đại chúng phải đưa thông tin chính xác, tạo niềm tin, khí thế trong nhân dân về các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội bền vững của nước ta.
- Tài chính – ngân hàng
a. Vấn đề về tỷ giá
Về diễn biến tỷ giá, tính đến ngày 20/3/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ đã giảm 0,35% so với đầu tháng và giảm 0,76% so với thời điểm đầu năm. Tuy nhiên, cho đến nay tỷ giá VND/USD trên thị trường ngân hàng bất ngờ có mức tăng mạnh. Diễn biến này khớp với diễn biến lãi suất trên thị trường và tín hiệu cần vốn ngoại tệ của các ngân hàng thời điểm này. Như vậy, tình trạng ứ đọng ngoại tệ, tỷ giá giảm mạnh ảnh hưởng đến xuất khẩu… bước đầu đã có chuyển biến tích cực. Xu hướng tăng của tỷ giá đang định hình trở lại. Về định hướng điều hành tỷ giá trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “điều hành tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng Đôla Mỹ nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ giao động +/- 2%. Tuy tỷ giá đã tăng trở lại song nhìn bề ngoài trên thị trường ngoại tệ hiện nay còn thấy một số mâu thuẫn lớn sau đây.
Mâu thuẫn thứ nhất, Việt Nam là một nền kinh tế nhập siêu, thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại, nhưng lại đang có "nghịch lý lớn" là từ đầu năm 2007, đặc biệt từ đầu tháng 3/2008 đến nay cung ngoại tệ lại lớn hơn cầu, xảy ra tình trạng thừa ngoại tệ. Tình hình đó làm cho tỷ giá VND/USD giảm mạnh trên cả 3 thị trường: thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán ngoại tệ của ngân hàng thương mại với các doanh nghiệp và tỷ giá trên thị trường tự do.
Mâu thuẫn thứ hai, tại Việt Nam các ngân hàng thương mại cho vay vốn USD theo lãi suất thả nổi hay cố định đều dựa trên nguyên tắc: lãi suất thị trường liên ngân hàng Singapore (Sibor) kỳ hạn 1 năm cộng với 1,5% - 2,0%/năm. Lãi suất Sibor kỳ hạn 1 năm hiện nay khoảng 3,4% - 3, 6%/năm, với tỷ lệ trên thì lãi suất cho vay chỉ khoảng 5,1% - 5,6%/năm. Nhưng hiện nay lãi suất cho vay thấp nhất của các ngân hàng thương mại Nhà nước đang là 6,45%/năm - 8,5%/năm, của các ngân hàng thương mại cổ phần từ 6,8%/năm - 9,0%/năm. Do đó giá thành hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ cao hơn, hàng hoá xuất khẩu và dịch vụ của Việt Nam có nguyên nhiên vật liệu và máy móc thiết bị phải sử dụng vốn vay USD kém sức cạnh tranh hơn so với các đối tác khu vực. Để lý giải hiện tượng này, theo ý kiến của các chuyên gia là do ba nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, từ đầu tháng 2/2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng từ 4% lên 5%. Các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc này cũng tăng gấp hơn 2 lần so với mức đầu năm 2007. Thứ hai, nguồn vốn USD trong các ngân hàng thương mại khan hiếm do người dân rút ra bán đi chuyển đổi sang VND. Thứ ba, doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ hơn so với vốn VND.
Mâu thuẫn thứ ba, trong khi cung ngoại tệ trên thị trường tăng mạnh, có tình trạng thừa ngoại tệ, tỷ giá VND/USD xuống quá thấp, nhưng vốn USD của các ngân hàng thương mại lại khan hiếm, lãi suất huy động vốn và cho vay vốn USD tăng cao! Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do các ngân hàng thương mại huy động được vốn ngoại tệ thì cho vay vốn ngoại tệ, không thể dùng vốn kinh doanh ngoại tệ do mua được trên thị trường để cho vay.
Trong khi đó với nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, ngân hàng thương mại luôn luôn phải đảm bảo ngoại hối dao động quanh mức 30% so với vốn tự có của ngân hàng thương mại đó để đảm bảo an toàn, tránh rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của mình cũng như của nền kinh tế. Việt Nam neo giữ tỷ giá VND/USD quá lâu, không đúng với diễn biến của thị trường hối đoái quốc tế trong khi USD giảm giá mạnh trong hơn 2 năm qua là nguyên nhân quan trọng gây nên lạm phát cao hiện nay.
Đến nay thì Ngân hàng Nhà nước lại hạn chế quá mức việc mua USD, làm cho tỷ giá sụt giảm nhanh. Thực tế hiện nay nếu Ngân hàng Nhà nước để tỷ giá diễn biến theo đúng cung cầu ngoại tệ theo chỉ đạo của Chính phủ, không neo giữ tỷ giá bằng việc công bố tỷ giá liên ngân hàng không sát thực tế và biên độ mặc dù đã được điều chỉnh lên +/-1% nhưng vẫn quá chật hẹp... thì tỷ giá mua bán USD của ngân hàng thương mại với doanh nghiệp còn giảm mạnh hơn. Theo hướng đó tỷ giá VND/USD giảm, sẽ làm giảm chi phí hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu khi tính ra VND. Đây là xu hướng chung trên thế giới khi mà USD đang suy yếu, mất giá mạnh với hầu hết các loại ngoại tệ chủ đạo.
- Vấn đề về lãi suất
Cuộc đua lãi suất của các ngân hàng đã được “chặn đứng” bằng thoải thuận của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA). Các thành viên của VNBA đã thống nhất đề xuất lên Ngân hàng Nhà nước phê duyệt áp dụng mức trần lãi suất tiền gửi bằng USD là 6%/năm và giảm mức trần lãi suất tiền gửi bằng đồng từ 12%/năm xuống còn 11%/năm. Các mức lãi suất này tính trên cơ sở các khoản tiền gửi trả lãi sau. Nhiều chuyên gia cho rằng việc áp dụng mức lãi suất trần trên sẽ hạn chế tình trạng cạnh tranh chạy đua lãi suất nhằm thu hút vốn giữa các ngân hàng như trong thời gian vừa qua và tạo ra sự ổn định trong các hoạt động của Ngân hàng. Tuy nhiên lãi suất cho vay của các ngân hàng vẫn chưa được điều chỉnh. Các chuyên gia kinh tế nhận định lãi suất cho vay hiện nay của các Ngân hàng là quá cao trong tình hình kinh tế hiện nay và doanh nghiệp sẽ khó đảm bảo có lãi, hoạt động ổn định khi vay với mức trên.
Lãi suất biểu hiện "giá cả" của đồng vốn trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, hiện nay lãi suất của các ngân hàng ở nước ta đang có một số bất hợp lý lớn. Từ tháng 2/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng một số loại lãi suất chủ đạo. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao trong khi các loại lãi suất đó của Ngân hàng Nhà nước chỉ tăng nhẹ thì lãi suất của các ngân hàng thương mại lại tăng rất cao? Tại sao các loại lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố hầu như không có tác động gì đến thị trường tiền tệ? Có thể lý giải những vấn đề đó như sau.
Thứ nhất, lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố về nguyên tắc là lãi suất cho vay khách hàng tốt nhất của các ngân hàng thương mại được lựa chọn, chủ yếu là các ngân hàng thương mại nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn. Như vậy ở đây có hai bất hợp lý lớn. Một là, lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại hiện nay cao hơn rất nhiều so với lãi suất cơ bản. Lãi suất huy động của các ngân hàng này lên tới 12%/năm cho kỳ hạn 1 năm, tức gấp gần 1,4 lần lãi suất cơ bản. Hai là, lãi suất cho vay khách hàng tốt nhất của nhóm ngân hàng thương mại vẫn được lựa chọn hiện nay lên tới 15%/năm, gấp 1,72 lần lãi suất cơ bản.
Như vậy thực tế phải chăng Ngân hàng Nhà nước chỉ công bố thôi, chứ không phải là lãi suất có tính chất "can thiệp" gì cả! Bên cạnh đó thị trường liên ngân hàng về nguyên lý, Ngân hàng Nhà nước là người đi vay và cho vay cuối cùng can thiệp về cung cầu vốn, từ đó can thiệp lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên, thị trường này hiện nay chủ yếu do các ngân hàng thương mại giao dịch vay mượn vốn trực tiếp lẫn nhau.
Thứ hai, lãi suất cho vay chiết khấu và lãi suất cho vay tái cấp vốn mặc dù được công bố, nhưng hai hoạt động cho vay này của Ngân hàng Nhà nước không thường xuyên, chỉ thực hiện khi giải quyết "tình huống" đột xuất về thanh khoản của ngân hàng thương mại nào đó. Hơn nữa hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại nhà nước được hưởng hai nghiệp vụ này, còn khối ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì không được hưởng.
Thứ ba, trong cơ cấu nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại đang có sự thay đổi lớn, đó là tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn tăng lên. Trong khi đó trong cơ cấu sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại cũng có sự chuyển biến quan trọng, tỷ trọng dư nợ cho vay trong tổng tài sản có sinh lời giảm, tỷ trọng vốn đầu tư chứng khoán, giấy tờ có giá, cho vay trên thị trường liên ngân hàng, .. tăng lên. Đây là lý do cơ bản gây nên tình trạng nóng lên trên thị trường tiền tệ thời gian qua, làm cho không ít ngân hàng thương mại rơi vào tình trạng khan hiếm vốn VND. Giải pháp hữu hiệu nhất là tìm đến nghiệp vụ thị trường mở, đầu tư vào tín phiếu kho bạc... Do đó doanh số giao dịch của hai thị trường này tăng mạnh. Nhu cầu đầu tư vào tín phiếu kho bạc và mua bán ngắn hạn trên thị trường mở tăng cao, lãi suất thị trường mở và thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc giảm.
Thứ tư, nguyên nhân chung và quan trọng nhất đó là thị trường tiền tệ theo đúng thông lệ quốc tế ở Việt Nam chưa phát triển, các công cụ điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ chưa hoàn thiện.
Thứ năm, theo xu hướng đổi mới và hội nhập, trong điều hành chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước cần chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp, thay cho công cụ trực tiếp, sử dụng nghiệp vụ ngân hàng trung ương để tác động vào thị trường. Song thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước sử dụng một số biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp và liên tiếp vào thị trường tiền tệ, làm cho thị trường này nóng lên chưa từng thấy.
3. Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục sụt giảm nghiêm trọng, Sự sụt giảm mạnh mẽ của thị trường chứng khoán đang gây ra tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư. Lượng bán ra quá vượt trội, lượng khớp quá hạn chế khiến cho những quyết định chủ động đặt bán giá sàn cũng khó thành công. Thị trường đang rơi và “không có đáy”, “không ngưỡng hỗ trợ”. Trước sự sụt giảm nghiêm trọng này, Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã có công văn về việc tạm thời điều chỉnh biên độ giá. Cụ thể, sàn Hà Nội đang từ biên độ +/-10% sẽ chỉ còn +/-2% và sàn Thành phố Hồ Chí Minh từ +/-5% xuống còn +/-1%. Giới hạn biên độ mới sẽ được áp dụng ngay từ 27.3.2008. Tuy nhiên, việc giảm biên độ chỉ là giải pháp tạm thời mang tính ngắn hạn trong lúc chờ đợi Chính phủ có những giải pháp thích hợp để đưa ra hỗ trợ thị trường. Khi lượng bán tháo nhiều việc này sẽ làm chậm lại, giúp NĐT trấn tĩnh hơn.
Theo ý kiến của các chuyên gia nguyên nhân của sự sụt giảm thị trường có yếu tố tâm lý không lành mạnh của nhà đầu tư. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan quản lý Nhà nước, các định chế trung gian… cần cung cấp thông tin chính xác, nhanh nhạy cho nhà đầu tư để tránh phản ứng tiêu cực. Điều quan trọng lúc này là các nhà đầu tư, các định chế tài chính trên TTCK không được hoang mang, bị động về tâm lý mà phải cùng nhau đưa ra những quyết định thông minh, vượt qua khó khăn trước mắt để tiếp tục phát triển trong trung và dài hạn. Bên cạnh đó, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình, chứ không nên khi TTCK lên thì vui vẻ, còn khi TTCK xuống lại có dấu hiệu phản ứng, phản ứng với quyết định của chính mình.
Đứng trước nguy cơ sụt giảm của thị trường chứng khoán, Chính phủ đã khẳng định không để thị trường chứng khoán tiếp tục đi xuống. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết, thị trường đã giảm đến đáy, nên trong điều hành Chính phủ quyết tâm không để giảm thêm. Về động thái SCIC mua cổ phiếu, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết: đây không đơn thuần là hành động cứu TTCK như một số nhà đầu tư nhìn nhận, mà là quyết định đầu tư đảm bảo hiệu quả đồng vốn của Nhà nước. Với chức năng đầu tư, kinh doanh vốn Nhà nước, SCIC biết đầu tư vào đâu có lợi, từ đó đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả… Phó Thủ tướng nhấn mạnh, chủ trương của Chính phủ trong điều hành nền KT nói chung, TTCK nói riêng rất rõ ràng, nhất quán là nhìn nhận đúng bản chất khó khăn, để chủ động vượt qua với mục tiêu: Ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát và đảm bảo nền KT phát triển lành mạnh, bền vững. Chính phủ kiên quyết điều hành TTCK đảm bảo có tăng trưởng trong năm nay. Trong phiên họp thường kỳ tháng 3 của chính phủ, Thủ tướng chính phủ đã có văn bản chỉ đạo các biện pháp bình ổn thị trường chứng khoán. Các biện pháp này bao gồm: Thứ nhất, tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) tập trung mua vào các cổ phiếu có tỉ trọng lớn góp phần ổn định thị trường. Thứ hai, giao NHNN chỉ đạo các NHTMNN và vận động các NHTMCP quyết định chưa giải chấp các hợp đồng cầm cố, repo CK. Thứ ba,cho vay tái chiết khấu với lãi suất 9% khi NHTM thiếu thanh khoản tạm thời mà không thể đi vay ở các kênh khác với mức lãi suất 9%.Thứ tư, đẩy mạnh mua ngoại tệ với tỉ giá thích hợp cho các NH và các tổ chức tài chính nếu ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp, kể cả ngoại tệ từ nguồn đầu tư gián tiếp. Thứ năm, cho phép các doanh nghiệp mua lại các cổ phần của chính doanh nghiệp đã phát hành ra thị trường và không bị hạn chế việc tăng vốn điều lệ theo các quy định hiện hành.
Bên cạnh tuyên bố “hỗ trợ” thị trường chứng khoán của chính phủ, thời qua cũng xuất hiện nhiều dấu hiệu lạc quan và có sức nặng ảnh hưởng, đến từ những nguyên nhân chính khiến thị trường sụt giảm kéo dài. Những nhân tố này đang được kỳ vọng sẽ giúp thị trường chứng khoán phục hồi. Trong đó các yếu tố được nhắc đến bao gồm:
Thứ nhất, sau đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước, vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại không rơi vào thế căng thẳng quá mức như nhiều nhà đầu tư lo ngại; thậm chí tin mới còn cho thấy một thực tế lạc quan.
Thứ hai, lãi suất huy động VND của các ngân hàng đang hạ nhiệt. Dự kiến từ tháng 4 tới, lãi suất huy động VND sẽ được cơ cấu lại hợp lý theo từng kỳ hạn và thống nhất xuống dưới 11%. Đây là cơ sở để lãi suất cho vay giảm bớt, giảm áp lực chi phí vay vốn của doanh nghiệp và cả nhà đầu tư, giảm bớt áp lực cạnh tranh nguồn vốn vào chứng khoán.
Thứ ba, liên quan đến tình trạng căng thẳng vốn VND và khó khăn của doanh nghiệp xuất khẩu, cuối tuần qua, Vụ Quản lý ngoại hối (Ngân hàng Nhà nước) đã có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại mở cửa mua vào ngoại tệ, với sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, đối với các doanh nghiệp và ngành hàng xuất khẩu trọng điểm. Đây là chuyển biến mới bên cạnh kế hoạch mua vào của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua và hiện nay. Tỷ giá VND/USD cũng bắt đầu tăng trở lại, giảm bớt thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ tư, Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy tình hình lạm phát đã có dấu hiện lắng dịu khi chỉ số CPI tháng 3 thấp hơn so với 2 tháng trước. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ đang có những chuyển biến tích cực. Nếu không có đột biến, có thể hy vọng lạm phát sẽ giảm trong những tháng tới, khi độ trễ của các chính sách kiềm chế được rút ngắn.
Thứ năm, trong thời gian tới, một loạt doanh nghiệp niêm yết sẽ tiến hành đại hội cổ đông. Bước đầu cho thấy nhiều doanh nghiệp sẽ xem xét lại các kế hoạch phát hành thêm, phương án chi trả cổ tức và kế hoạch phát triển kinh doanh theo hướng phù hợp với bối cảnh mới. Những thông tin cụ thể về kết quả kinh doanh, mục tiêu phát triển… sẽ góp phần củng cố niềm tin của cổ đông và nhà đầu tư.
4. Thị trường Bất động sản
Thị trường Bất động sản cũng đang diễn biến phức tạp. Theo nhận định của các công ty kinh doanh địa ốc trong thời gian tới, giá BĐS sẽ còn tiếp tục giảm. Một trong những lý do quan trọng là giá nền đất hiện tại vẫn còn quá cao so với giá gốc do công ty bán ra ban đầu. Các chuyên gia kinh doanh bất động sản cho rằng giá nền đất sẽ tiếp tục giảm từ 5 đến 10%. Và phải 2 đến 3 tháng nữa thị trường bất động sản mới có thể ổn định. Họ cũng cho rằng cho rằng những chủ trương quản lý vĩ mô dù chưa được thực hiện, nhưng thị trường BĐS rất nhạy cảm nên phần nào sự việc hạn chế cho vay, thông tin về thuế lũy tiến cũng đã khiến người cầm giữ nhiều nhà đất đã lo nhả ra. Hoạt động chống lạm phát của Ngân hàng Nhà nước đã hút về một lượng tiền, bên cạnh đó nếu vay ngân hàng thì lãi suất từ 1,5 đến 1,8 hoặc có khi đến 2% khiến giới đầu cơ thấy không còn có lãi nên không cầm giữ nhà nữa. Nhiều người lo lắng việc giảm giá sẽ khiến cho thị trường BĐS đóng băng, nhưng theo Phó Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu thị trường giá cả, ông Vũ Đình Ánh, đây là điều chỉnh cần thiết, là tín hiệu tốt cho thị trường. Theo ông Ánh, việc giá BĐS giảm giúp đưa thị trường về với giá trung thực hơn, giảm nguy cơ bong bóng vỡ. Lượng nhà bán ra nhiều hơn, giá cả phù hợp sẽ giúp việc mua bán hiệu quả hơn chứ không đóng băng như suy đoán. Người mua sẽ có những tính toán đúng hướng, không bị cuốn theo cầu ảo của thị trường. Điều này cũng sẽ giúp cho các nhà đầu tư có hướng đầu tư đúng, hiệu quả hơn. Chính điều này sẽ giúp thị trường đi vào ổn định.
Trước sự sụt giảm của thị trường bất động sản Bộ Xây dựng vừa báo cáo Chính phủ về 6 giải pháp trước mắt nhằm giúp thị trường bất động sản phát triển ổn định:
Thứ nhất, Điều chỉnh thuế nhà đất theo hướng hạn chế đầu cơ, khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân đưa tài sản nhà đất vào sử dụng. Trường hợp tài sản nhà đất được đưa vào kinh doanh đã nộp thuế kinh doanh hoặc thuế thu nhập thì BĐS đó không bị đánh thuế luỹ tiến. Giảm mức thuế chuyển nhượng xuống 1% và không thu thuế thu nhập cá nhân do bán nhà, hoặc gộp thuế chuyển nhượng bất động sản với thuế thu nhập cá nhân hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngược lại, để hạn chế đầu cơ mua đi bán lại gây lộn xộn thị trường, cần đánh thuế với thuế suất cao đối với các trường hợp bán nhà đất trong vòng 2 năm kể từ khi mua. Thuế suất được tính như là kinh doanh bất động sản với thuế suất bằng 25-28% chênh lệch giá mua bán.
Thứ hai, phát triển nhà ở có quy mô, chất lượng và giá cả phù hợp. Quỹ đất để phát triển nhà ở cho thuê và nhà ở xã hội phải được triển khai chuẩn bị ngay từ khi quy hoạch phát triển đô thị.
Thứ ba, cải tiến trình tự, thủ tục chuẩn bị đầu tư, phê duyệt dự án để rút ngắn thời gian đầu tư. Điều chỉnh, bổ sung chính sách giải phóng mặt bằng để tháo gỡ khó khăn đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án nhằm tăng cung hàng hoá cho thị trường bất động sản theo hướng: chính quyền địa phương tổ chức giải phóng mặt bằng. Bỏ cơ chế chủ đầu tư thoả thuận với dân gây mất bình đẳng và khiếu kiện và thực hiện đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư dự án.
Thứ tư, đẩy mạnh công khai, minh bạch các thông tin để ổn định thị trường. Quy định rõ thời gian và địa điểm công khai quy hoạch, công khai dự án để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư bình đẳng và dễ dàng tiếp cận các dự án phát triển bất động sản, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tăng cung cho thị trường. Thực hiện nghiêm quy định bắt buộc các tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải bán nhà và chuyển quyền sử dụng đất tại các dự án phải thông qua sàn giao dịch BĐS để mọi đối tượng có nhu cầu tiếp cận trực tiếp các thông tin mua bán.
Thứ năm, cho vay tín dụng đối với những người thực sự có nhu cầu. Chỉ nên hạn chế những người vay để mua đi bán lại bất động sản kiếm lời làm méo mó thị trường,
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật kinh doanh BĐS.
5. Xuất - nhập khẩu
Cùng với lạm phát, nhập siêu (NS) là một trong hai vấn đề nổi cộm nhất về kinh tế quý 1/2008. Bộ Công thương cho biết, 3 tháng đầu năm 2008, kim ngạch nhập khẩu (KNNK) hàng hóa đạt trên 20,5 tỷ USD, tăng 68,7% so với cùng kỳ năm trước và đưa NS lên mức hơn 7 tỷ USD, bằng khoảng 50% mức NS năm 2007 (gấp 3 lần so với tỷ lệ NS cùng kỳ năm trước). Với đà này, lượng NS cả 4 quý sẽ vượt xa kế hoạch năm 2008 của Bộ Công thương (ước tính là 17 tỉ USD - và mới đây đã được điều chỉnh lên 20 tỉ USD để sát hơn với thực tế). Trong khi đó, để đạt mục tiêu xuất khẩu (XK) 59,25 tỷ USD cho cả năm, bình quân mỗi tháng phải đạt thấp nhất 5 tỷ USD, nhưng trong quý I-2008, chưa tháng nào kim ngạch xuất khẩu (KNXK) đạt mức này. Tình trạng nhập siêu tăng kéo theo những hệ lụy nguy hiểm cho nền kinh tế. Do NK tăng mạnh, lượng ngoại tệ mà các ngân hàng phải cho các DN NK vay để thanh toán là rất lớn, trong khi do giá trị XK thấp, nguồn vốn ngoại tệ của các DN XK gửi vào ít khiến các ngân hàng đang lâm vào cảnh thiếu vốn khả dụng ngoại tệ. Tình trạng thiếu nguồn USD để cho vay của các ngân hàng đã xuất hiện từ nửa cuối năm 2007, đang có dấu hiệu ngày càng căng thẳng. Với KNNK tăng nhanh như hiện nay, tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán là điều khó tránh khỏi. Đúng như nhận định của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các chuyên gia kinh tế trong nước, Việt Nam đang NK lạm phát.
Vậy, đâu là nguyên nhân của tình trạng NS kỷ lục này? Nguyên nhân nhập siêu nhìn từ góc độ xuất khẩu chính là cơ cấu xuất khẩu còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhìn tổng quát, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô, hàng chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế. Hàng chế biến xuất khẩu còn ít và quan trọng hơn là tỷ lệ hàng gia công còn lớn, lượng nguyên phụ liệu phải nhập từ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao. Chính vì thế, như một lãnh đạo Bộ Công Thương đã từng nhận xét, với tính chất gia công lớn như vậy thì càng xuất khẩu sẽ càng nhập siêu. Điều đó cũng chứng tỏ, công nghiệp phụ trợ, nội địa hoá rất chậm phát triển.
Nhập siêu tăng còn có nguyên nhân từ hiệu quả và sức cạnh tranh sản xuất trong nước còn thấp. Những yếu kém của nền kinh tế và trong cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra những thách thức gay gắt cho việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế. Một điểm cần lưu ý là một số mặt hàng có thể sản xuất được, thậm chí có nguồn nguyên liệu trong nước như clinke làm xi măng, phôi thép, dầu thô, thức ăn gia súc, bột giấy... nhưng lại chậm đưa vào sản xuất hoặc sản xuất ít. Một số mặt hàng chưa thật cần thiết nhưng lại nhập khẩu với khối lượng lớn. Thêm nữa là trong khi giá nhập khẩu tính bằng USD cao lên thì tỷ giá lại được neo vào USD lên hàng nhập khẩu nên bị đắt kép (đắt do tính giá bằng USD, đắt do tỷ giá VND/USD tăng trong khi USD mất giá lớn so với các đồng tiền khác).
Một nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng nhập siêu chính là hiệu quả của đầu tư công. Mới đây, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã đề xuất cắt giảm đầu tư công không hiệu quả. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cũng chỉ ra căn nguyên tương tự: lượng vốn chảy vào nền kinh tế Việt Nam năm qua xấp xỉ 23 tỉ đô la (tương đương 30% GDP), nhưng một tỷ lệ rất lớn trong lượng vốn này được dành cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Theo lý giải của IMF, lượng tiền được đầu tư nhiều nhưng không được sử dụng một cách có hiệu quả để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ, nghĩa là đầu tư sản xuất vẫn tiếp tục được rót vốn vào nhưng đầu ra là hàng hoá có chất lượng thì quá ít, dẫn đến cán cân thương mại nghiêng, ắt phải nhập siêu.
Bài toán nhập siêu sẽ tiếp tục làm chúng ta lúng túng, khi Chính phủ đã quyết định cắt giảm 1.700 dòng thuế xuất khẩu theo cam kết WTO, cộng thêm việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ từ năm 2009. Trong khi đó, việc tận dụng những cơ hội mà hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) mang lại hay định hướng lại thị trường xuất nhập khẩu (tránh các thị trường thanh toán bằng đồng euro hay đồng tiền mạnh khác) mới chỉ ở dạng khởi động.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Trước mắt, để giảm nhập siêu cùng với vịêc chống lạm phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ đạo “phát triển sản xuất là giải pháp gốc”. Cần thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu, nhất là đối với các ngành hàng Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế như: thuỷ sản, dệt may, giầy dép.... như. Tiếp đến, cần tập trung tháo gỡ ngay các khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhất là việc chuyển ngoại tệ thành VND, thiếu vốn tín dụng... cho doanh nghiệp xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; Tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; Cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu; Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
6. Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nông dân, bộ phận chiếm tới ba phần dân số Việt Nam luôn được coi là lực lượng chủ lực của nền kinh tế. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội 20 năm trước đây, chính “khoán mười” đã đưa đến sự thần kỳ trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lương thực nói riêng, góp phần đáng kể vào kết quả tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm đầu cải cách. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện nay, nông dân lại đang là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội.
Vấn đề quan trọng hàng đầu chính là an ninh lương thực. Xét về cả hai mặt, người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo, nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, chênh lệch giàu/nghèo hiện rất lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu nên lạm phát cao như hiện nay đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng khổ. Ở đây xuất hiện một câu hỏi: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt? Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn. Giá đầu ra tăng, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán cho người tiêu dùng mà còn phải chia cho thương lái, người nông dân chỉ được một phần nhỏ trong số đó.
Một lẽ cần cảnh báo là diện tích gieo trồng lúa đang giảm gần như liên tục từ năm 2000 đến nay. Năm 2007 đã giảm gần nửa triệu ha so với năm 2000 và đang có xu hướng giảm tiếp nữa. Vụ đông xuân năm nay ở miền Bắc, do gặp rét hại, rét đậm kéo dài hiếm thấy và dịch bệnh đã làm chết hàng trăm nghìn ha lúa mới cấy và hàng chục nghìn ha mạ đã gieo, làm chết hàng trăm nghìn con gia súc, gia cầm. Ngoài các nguyên nhân do tác động xấu của thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng và gia súc, do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp... còn có nguyên nhân do giá lương thực tăng cao trong một thời khá dài làm cho nhiều hộ thuần nông cũng để trống chuồng. Nay giá thực phẩm tăng cao hơn giá lương thực, trong khi giá phân hóa học tăng mạnh, nhiều hộ mới chăn nuôi trở lại.
Tất cả những yếu tố trên cảnh báo nước ta cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề an ninh lương thực ngay từ bây giờ bằng các biện pháp quyết liệt và đồng bộ, từ Trung ương đến địa phương và người dân. Giảm thiểu việc chuyển đất trồng cây lương thực, nhất là đất trồng lúa sang làm việc khác. Khôi phục việc nuôi lợn ở tất cả các hộ làm nông nghiệp để giải quyết nhu cầu thực phẩm, vừa có phân bón hữu cơ cải tạo đất. Khôi phục việc dự trữ lương thực để đề phòng thiên tai dịch bệnh. Cải thiện và nâng cấp hạ tầng cơ sở ở nông thôn, nhất là hệ thống đê sông, đê biển, công trình thủy lợi... Hàng năm cần điều tra để lập cân đối giữa sản xuất, tiêu dùng, xuất khẩu và dự trữ lương thực. Tránh tình trạng để nông dân tự dò dẫm, xoay sở như hiện nay.
Một vấn đề đáng bàn nữa là có thể nói Việt Nam chưa có một chính sách dài hạn, một tầm nhìn xa để giải quyết các vấn đề nông dân và nông thôn mà chúng ta vẫn điều hành theo kiểu đối phó diễn biến sự kiện, sự việc trong khi người nghèo sống ở nông thôn chiếm tới trên 90% tổng số người nghèo của cả nước. GS.Viện sĩ Đào Thế Tuấn, Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nông thôn, nguyên Viện trưởng Viện KKHT nông nghiệp Việt Nam nhận định: vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta hiện nay, về thực chất, là vấn đề phát triển bền vững. Nếu công cuộc Đổi mới của nước ta dẫn đến một sự phân hoá xã hội quá mức, tăng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn thì sự phát triển sẽ không bền vững. Phát triển nông thôn phải tăng phúc lợi cho người nông dân. Tuy nhiên, ở Việt Nam có sự hiểu nhầm rằng phát triển nông nghiệp tốt thì phát triển nông thôn tốt vì nông nghiệp đi lên kéo theo nông thôn phát triển. Thực tế không phải như vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất còn nông thôn là lãnh thổ. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề khác nhau, song, nếu không cùng được giải quyết một cách đồng bộ thì không thể CNH-HĐH đất nước một cách vững chắc được. Chính sự hiểu lầm này đã dẫn đến nhiều bất cập trong việc phân công trách nhiệm quản lý, điều hành các vấn đề nông nghiệp – nông thôn – nông dân giữa các Bộ, ngành liên quan, gây nên tình trạng chồng chéo trong nhiều lĩnh vực nhưng lại bỏ qua những quyết sách để giải quyết được cơ bản các vấn đề còn tồn tại trong nông thôn Việt Nam hiện nay.
Nguồn: VNEP, 31/03/2008.
Các bài báo tham khảo
1. Phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững – Hà Nội mới, 31/3/2008 - Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: Từ nay đến tháng 6/2008: không tăng giá xăng dầu! – Website Chính Phủ
3. Bài toán đẩy mạnh xuất khẩu - thu hẹp nhập siêu: Cần sớm có lời giải - Hà Nội mới, 31/3/2008 – Minh Quang
4. 20 năm "Khoán Mười" – Thanh Niên, 21/03/2008 – Đào Ngọc Lâm
5. Nông dân và lạm phát – Thanh Niên, 18/03/2008 – Đào Ngọc Lâm
6. Đừng để nông dân thêm yếu thế trong cơ chế thị trường – VietnamNet, 30/03/2008 – Hà Yên.
7. 6 giải pháp ổn định thị trường bất động sản – Dân trí, 26/03/2008 – Lan Hương
8. Doanh nghiệp không tăng giá thép trong tháng 3 – Thông tấn xã Việt Nam
9. 5 yếu tố mới sẽ hỗ trợ chứng khoán đảo chiều –Thời báo kinh tế Việt Nam, 24/03/2008 - Hoàng Vũ.
10. Ba mâu thuẫn lớn trên thị trường ngoại tệ - Thời báo kinh tế Việt Nam, 19/03/2008 - Nguyễn Hà
11. Những bất hợp lý của lãi suất –Thời báo kinh tế Việt Nam, 24/03/20078 - Nguyễn Hà.
12. Ngân hàng thoả thuận lãi suất VND không quá 11% - Vietnamnet, 24/03/2008.
13. TTCK: Những giải pháp cấp bách thực hiện ngay –Lao động, 26/03/2008 –Nguyễn Hoàng
