Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Sao lại giảm lãi suất huy động? (01/04)

06/08/2010 - 51 Lượt xem

Nếu theo kiến nghị của Hiệp hội Ngân hàng, thì từ ngày 2.4, trần lãi suất huy động VND là 11%/năm, thấp hơn trần lãi suất 12%/năm do Ngân hàng Nhà nước đã quy định trước đây khoảng 1 tháng. Nếu kiến nghị này chính thức được thực hiện, thì lãi suất bị "thực âm". Mới sau ba tháng, lạm phát đã ở mức 9,19%, cao gấp 3 so với cùng kỳ năm trước. Theo chỉ đạo của Thủ tướng, lạm phát năm nay kiềm chế dưới 12,6%; còn theo dự đoán của các chuyên gia, lạm phát năm nay sẽ còn cao hơn năm trước.

Nếu tính theo năm (tức là bình quân 3 tháng năm nay so với 3 tháng cùng kỳ năm 2007), đã tăng tới 16,39%. Khi lãi suất huy động bị "thực âm" sẽ làm xuất hiện hàng loạt nghịch lý.

Trước hết, sẽ không thực hiện được ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là phải bảo đảm lãi suất "thực dương". Để đảm bảo lãi suất "thực dương" thì dù lãi suất danh nghĩa là 12%/năm theo trần cũ cũng không đạt được, huống hồ 11%/năm. Như vậy, đáng lẽ phải kiến nghị đưa trần lãi suất huy động lên cao hơn thì Hiệp hội Ngân hàng lại kiến nghị đưa xuống thì đó là một nghịch lý.

Nghịch lý thứ hai, khi lãi suất huy động bị "thực âm", sẽ xảy ra hai động thái. Người có tiền tạm thời nhàn rỗi hay muốn gửi tiết kiệm để "tích cốc phòng cơ" (nhằm có một khoản tiền đề phòng các rủi ro khi thiên tai, dịch bệnh, tai nạn hoặc gửi để lo cho con cháu học hành,...) sẽ không muốn gửi tiết kiệm nữa vì lãi suất tiết kiệm không còn hấp dẫn. Người có tiền đã gửi tiết kiệm đến kỳ đáo hạn do lãi suất không còn hấp dẫn cũng rút ra để đầu tư vào các kênh khác có lãi suất hấp dẫn hơn.

Khi nguồn tiền huy động qua kênh lãi suất không còn dồi dào, thì mục tiêu hút tiền từ lưu thông về để giảm áp lực lạm phát sẽ không đạt được, sẽ làm cho lạm phát tiếp tục tăng cao do trong lưu thông tiền sẽ nhiều hơn hàng. Cần nhớ rằng trong thời chống lạm phát "phi mã" cách đây vài chục năm, trong 44 phương án chống lạm phát được đề xuất, Chính phủ đã chọn ra giải pháp hút tiền từ lưu thông về bằng cách nâng lãi suất huy động (đang từ 2 - 3%/tháng lên thẳng 12%/tháng) và đã có tác động tức thời chặn đứng lạm phát phi mã. Việc tăng cung hàng hóa cũng được thực hiện (như khoán hộ trong nông nghiệp, tăng nhập khẩu tiểu ngạch...), nhưng tác động sau đó và dài hơn.

Khi lãi suất huy động giảm thì sẽ quay trở lại tình trạng của mấy năm qua là người có tiền sẽ đầu tư lòng vòng qua các kênh vàng, chứng khoán, bất động sản; nhiều doanh nghiệp, cá nhân còn vay ngân hàng không phải để đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh mà cũng lao vào lĩnh vực đầu tư bất động sản, đầu tư tài chính; nhiều tập đoàn, tổng công ty còn lập tổ chức tài chính, tín dụng kiểu ngân hàng,... chính việc đầu tư lòng vòng vào các lĩnh vực nóng, tạo thành các "bong bóng", chỉ cần "xì hơi" (chứ chưa nói là vỡ) đã gây ra những hiểm họa khó lường,... từ các cơn sốt giá hết bất động sản, chứng khoán, vàng,... trong những năm qua đã xuất hiện biết bao những "đại gia" không chỉ với những tiền tỉ, chục tỉ, trăm tỉ mà còn có cả nghìn tỉ.

Nhà nước mất bao nhiêu tiền để giảm thuế suất thuế nhập khẩu bù lỗ, đền bù khi thu hồi đất, bù giá vào lương, bù giá vật liệu, thu tiền về nhưng phải trả lãi (như kiểu phát hành trái phiếu...) rồi lại phải trợ cấp cho những người nghèo, những người chịu thiệt thòi do giá tăng đột biến, rồi còn phải hạ tốc độ tăng trưởng kinh tế để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát. Về lĩnh vực tiết kiệm, đã có tình trạng chuyển giao thu nhập từ người cho vay và người làm công ăn lương sang cho người chủ doanh nghiệp, bởi người gửi tiền tiết kiệm và người làm công ăn lương thường không thể chạy theo lạm phát để tăng thu nhập cho mình, còn người kinh doanh còn có thể chạy theo thậm chí "vượt trước" sự tăng giá để không những bảo toàn được thu nhập mà còn thu được thêm lợi nhuận. Có chuyên gia đã cho rằng, lạm phát không chỉ là thứ thuế đối với tất cả những người tiêu dùng mà còn có tính tàn bạo xã hội, khi lạm phát đã tạo ra một sự chuyển giao thu nhập giữa người nghèo sang người giàu. Lãi suất "thực âm" đồng nghĩa với người dân đang tài trợ cho doanh nghiệp phát triển.

Tất nhiên, khi tăng lãi suất huy động thì sẽ tạo ra áp lực tăng lãi suất cho vay, làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp, tạo áp lực tăng giá bán đầu ra. Nhưng "lãi suất là lãi suất chứ không phải là cái gì khác" đó là cái tệ hại trong hoạt động ngân hàng - tín dụng. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại cổ phần năm 2007 đều có lãi lớn, vượt kế hoạch, trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước năm trước có lãi suất huy động thấp hơn nhiều, chắc là phải lãi cao hơn nhiều. Hiện nay, Nhà nước đang dồn toàn lực cho việc chống lạm phát, nên cả ngân hàng và doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, thậm chí giảm lợi nhuận để phục vụ mục tiêu ưu tiên này. Vì vậy, nếu chưa nâng trần lãi suất huy động (lên trên 12%/năm), thì không nên hạ trần lãi suất huy động (xuống 11%/năm) vào lúc này, nếu không sẽ triệt tiêu các biện pháp khác, chẳng khác gì "đánh bùn sang ao".
Nguồn: Thanh Niên