Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hai kịch bản cho kinh tế Việt Nam (02/04)

06/08/2010 - 43 Lượt xem

Tại lễ công bố Báo cáo cập nhật về tình hình khu vực Đông Á - TBD, các chuyên gia của World Bank (WB) đưa ra hai kịch bản dự đoán về kinh tế Việt Nam trong 2008 trong đó, tăng trưởng Việt Nam sẽ ở mức từ 7,5% đến 8% và sẽ phục hồi trở lại trên 8% vào năm 2009.

Tăng trưởng nóng do tín dụng ngân hàng tăng cao

Bản báo cáo ghi nhận, năm 2007 và đầu 2008, kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức 6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân vãng lai thâm hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt là giá cổ phiếu đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007.

WB cho rằng, tăng trưởng kinh tế quá nóng của Việt Nam không phải là kết quả của việc chi tiêu ngân sách quá cao của Chính phủ, mà của tín dụng ngân hàng tăng ở mức cao, từ 25,4% năm 2006 lên hơn 50% (11/2007)

WB cho rằng, tăng trưởng kinh tế quá nóng của Việt Nam không phải là kết quả của việc chi tiêu ngân sách quá cao của Chính phủ, mà của tín dụng ngân hàng tăng ở mức cao, từ 25,4% năm 2006 lên hơn 50% (11/2007). Điều này gây quan ngại về chất lượng các hạng mục đầu tư của ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng cao chủ yếu xuất phát từ việc tăng dự trữ ngoại hối ở mức kỷ lục.

Trong thời gian cuối 2007, đầu 2008, NHNN đã có những biện pháp dường như trái ngược nhau dẫn tới tình trạng thiếu khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng thương mại. Gần đây, đầu tháng 3/2008, Chính phủ đã thông qua một gói giải pháp mới bao gồm một nhóm giải pháp về chính sách tiền tệ và tài chính được thiết kế nhằm hạ nhiệt tăng trưởng kinh tế cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực tới quá trình tăng trưởng.

Kinh tế gia trưởng của WB khu vực Đông Á - TBD, Martin Rama ghi nhận, các giải pháp này "đi theo đường hướng đúng, để điều chỉnh cân đối cán cân tài chính, ổn định tài chính. Các biện pháp được thực hiện tốt ở Việt Nam trên cơ sở khuôn khổ tài chính mạnh".

"Thành công của nhóm giải pháp này sẽ phụ thuộc nhiều vào việc thực hiện trên thực tế và khả năng điều chỉnh của Chính phủ trong các hoàn cảnh cụ thể", bản báo cáo đánh giá.

Martin Rama, kinh tế gia trưởng của WB tại Việt Nam cho rằng, ở khu vực, Việt Nam không phải là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ khủng hoảng kinh tế Mỹ. Việt Nam có mức tăng xuất khẩu ổn định, trung bình 20-21% trong nhiều năm qua. Việt Nam không phải là nhà sản xuất bị loại ra, chịu ảnh hưởng xấu do khủng hoảng mà có thể là người hưởng lợi từ tình hình kinh tế hiện nay.

"Điều Việt Nam cần quan tâm là các dòng vốn. Hiện nay, Việt Nam không có dấu hiệu rõ ràng để dự đoán dòng vốn. Vấn đề thị trường cầm cố liên quan đến cho vay mua bất động sản gặp phải có thể lan sang các loại tài sản khác" - Martin Rama

Điều Việt Nam cần quan tâm là các dòng vốn. Hiện nay, Việt Nam không có dấu hiệu rõ ràng để dự đoán dòng vốn. Vấn đề thị trường cầm cố liên quan đến cho vay mua bất động sản gặp phải có thể lan sang các loại tài sản khác như thẻ tín dụng.

Trong thị trường tài chính, hiệu ứng lây lan, thậm chí giữa các nước có tác động rất mạnh đến nền kinh tế. Một cuộc khủng hoảng tài chính trên quy mô lớn hơn có thể khiến dòng vốn đổ vào bị chậm lại, thậm chí đảo chiều.

Giống như việc phòng cháy, nếu một nơi xảy ra cháy, các nơi khác sẽ hoạt động dè dặt, cầm chừng hơn để không đẩy đến tình trạng bị cháy lây lan.

Dù chịu nhiều tác động do khủng hoảng, nhưng Việt Nam vẫn sẽ đạt mức tăng trưởng 8% trong năm 2008. Ở phương án xấu nhất, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ ở mức 7,5%. Trên đà khôi phục chung của kinh tế khu vực, năm 2009, Việt Nam có thể quay trở lại mức tăng trưởng trên 8%.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, sự thay đổi mức tăng trưởng này tác động như thế nào phụ thuộc khá lớn vào quy mô nền kinh tế. Hy sinh 1% tăng trưởng đối với một thị trường như Việt Nam sẽ tạo những hiệu quả lớn.

Việt Nam cần chuẩn bị bước đi chắc chắn đưa giải pháp chống ảnh hưởng lạm phát. Tình hình hiện này không nặng nề như khủng hoảng châu Á 1997. Xử lý như thế nào hoàn toàn là chính sách trong nước để sử dụng nguồn tiền dự trữ hiệu quả, bảo vệ được nền kinh tế... Việt Nam không thiếu dự trữ để nhập khẩu, do đó, chưa cần tới sự hỗ trợ của các định chế tài chính quốc tế" như trường hợp các nước năm 1997.

Phá "tam pháp bất khả thi" không gây đổ vỡ kinh tế

Bên cạnh những giải pháp của Chính phủ vừa đưa ra, Việt Nam cần tập trung "phá" tam pháp bất khả thi. Đó là: Chu chuyển dòng vốn, tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ độc lập.

Để chống lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô, ông Martin Rama cho rằng, bên cạnh những giải pháp của Chính phủ vừa đưa ra, Việt Nam cần tập trung "phá" tam pháp bất khả thi. Đó là: Chu chuyển dòng vốn, tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ độc lập.

Khi NHNN mua vốn vào để duy trì tỷ giá, đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của tiền Đồng trong nền kinh tế. Tính thanh khoản có thể được nâng cao nhờ nghiệp vụ trung hòa, bán trái phiếu, thu lại tiền Đồng. Song NHNN gần như đã bán hết trái phiếu chính phủ.

Lượng cung tiền có thể bị thắt chặt bằng cách bán hối phiếu của NHNN song tỷ giá được đưa ra lại không hấp dẫn. Cuối quý IV năm 2007, NHNN không thể áp dụng dù lãi suất rất cao (12% là quá cáo só với bất kỳ chuẩn nào) nhưng không thể so với đầu cơ bất động sản trong cơn sốt bong bóng của thị trường này.

Tín dụng tăng hơn 50% trong năm 2007 với nguồn vốn từ nhiều dòng lên tới 22 tỷ USD đã góp phần làm tăng giá, tăng nhập khẩu, tạo bong bóng bất động sản.

Xử lý "tam pháp bất khả thi" có thể bằng cách mềm hoặc làm mạnh nhưng quan trọng là không làm kinh tế vỡ vụn ra nếu không muốn phải hi sinh hớn, không làm suy sụp hẳn một khía cạnh nào. Cần phải tính toán rất kĩ giữa chi phí và lợi ích trong việc áp dụng từng giải pháp, giảm thiểu chi phí phải bỏ ra.

"Phá vỡ "tam pháp bất khả thi" cần những biện pháp mềm mỏng, không nóng vội được nếu không muốn gây đổ vỡ..." - Martin Rama

"Phá vỡ tam pháp bất khả thi" cần những biện pháp mềm mỏng, không nóng vội được nếu không muốn gây đổ vỡ", ông nói. "Cần phải từng bước áp dụng tăng lãi suất, thực hiện tỷ giá linh hoạt, không nên đưa giải pháp quá mạnh, dẫn đến trường hợp thay vì đưa lại điểm cân bằng đã vượt lên, thay vì giá quá cao sẽ chuyển về giá quá thấp".

Việc này cần một giai đoạn chuyển tiếp, quá độ, thực hiện các bước diễn tiến bình thường, giảm sức ép với tất cả các mặt của nền kinh tế: chấm dứt bong bóng bất động sản, thực hiện cơ chế thị trường, tín dụng thắt chặt cho vay để mua bất động sản, chi tiêu công thắt chặt.

Tuy nhiên, thắt chặt chi tiêu công phải điều hòa vì nhu cầu chi tiêu cho đầu tư công rất cao, không thể thắt chặt quá. Hiệu quả hoạt động của nền kinh tế chịu ảnh hưởng rất mạnh. Cần đặt vấn đề giải pháp như vậy có tốt, hiệu quả không? Ví dụ, xuất khẩu giảm mạnh do tác động khủng hoảng kinh tế, chi tiêu công ở mức thấp, có thể kinh tế không hoạt động được nữa. Lúc đó, cả nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng.

Việt Nam cần giai đoạn chuyển đổi, học hỏi từ các nước khác, thận trọng để tránh bị tổn thương, đặc biệt với người dân. "Kết quả không thể đến sau một ngày", Việt Nam cần kiên trì thực hiện các giải pháp một cách phù hợp.

Tách rời ảnh hưởng của đồng đôla

Việt Nam cần sớm chấm dứt tình trạng bong bóng trên thị trường nhà đất, dựa trên cơ chế thị trường trong vận hành các thể chế tài chính, siết chặt hoạt động vay vốn của khu vực công, tách rời ảnh hưởng của đồng đôla đối với nền kinh tế và quản lý tốt dòng vốn.

Để cắt giảm chi phí, hạn chế tối đa mức đánh đối, trả giá, ông Martin Rama khuyến nghị, Việt Nam cần sớm chấm dứt tình trạng bong bóng trên thị trường nhà đất, dựa trên cơ chế thị trường trong vận hành các thể chế tài chính, siết chặt hoạt động vay vốn của khu vực công, tách rời ảnh hưởng của đồng đôla đối với nền kinh tế và quản lý tốt dòng vốn.

Kinh tế gia trưởng của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh việc tách rời ảnh hưởng của đồng đôla. Chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua rối, không tách rời được ảnh hưởng của đồng đôla và tình hình kinh tế thế giới.

Việt Nam cần điều chỉnh giỏ ngoại tệ của mình, không quá phụ thuộc vào đồng đôla. "Nếu muốn là quốc gia xuất khẩu có sức cạnh trnah lớn, không phải sức cạnh tranh tới hạn, Việt Nam cần đảm bảo khả năng cạnh tranh theo cả giỏ ngoại tệ chung". Martin Rama cho rằng, năm tới, tình hình sẽ có cải thiện, Việt Nam sẽ tăng giá tiền đồng, điều chỉnh tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn.

So sánh với các nước trong khu vực, thời gian qua, Việt Nam áp dụng tỷ giá hối đoái ở mức cực đoan, trong khi láng giềng Philippine áp dụng tỷ giá linh hoạt ở mức 16%. Nếu mức linh hoạt tỷ giá của Việt Nam là 5-6%, lạm phát thời gian qua có thể thấp hơn. Tuy nhiên, ông Rama cho biết, Ngân hàng thế giới không dám đưa ra lời khuyên cho Việt Nam áp dụng tỷ giá như Philippine vào thời điểm hiện tại do sự không tương thích giữa các đồng tiền.

"Việt Nam chưa sẵn sàng. Việt Nam có thể đảm bảo tính linh hoạt trong tỷ giá từ 0,5% đến 1%, 2%. Mức này dù thấp nhưng chấp nhận được".

Nguồn: VietnamNet.