
Tin tức
Thấy gì từ FDI? (22/04)
06/08/2010 - 53 Lượt xem
Điều dễ nhìn thấy nhất là lượng vốn đầu tư đăng ký và thực hiện đạt mức khá qua các thời kỳ và gần đây tăng nhanh. Tính đến nay đã có hơn 100 tỉ USD đăng ký và trên 45 tỉ USD vốn thực hiện; nếu tính theo đầu người thì Việt Nam đứng hàng đầu trong các nước hiện nay. Năm 2006 có 12 tỉ USD đăng ký và gần 4 tỉ USD thực hiện; năm 2007 tương ứng đạt 21,3 tỉ USD đăng ký và khoảng 8 tỉ USD thực hiện.
Trong 83 nước và vùng lãnh thổ đầu tư, có 18 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 1 tỉ USD. Tất cả 64 tỉnh, thành phố có vốn ĐTNN, trong đó có 15 địa bàn đạt trên 1 tỉ USD. Cơ cấu vốn đã chuyển dịch theo hướng tích cực cả theo nhóm ngành kinh tế, theo địa bàn, theo nhóm nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Việt Nam, từ việc bổ sung vốn đầu tư, cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách, đến việc tạo việc làm cho người lao động,...
Tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng về FDI cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký còn thấp, tính chung mới đạt khoảng một nửa. Trong tổng lượng vốn, có một nửa số vốn là vào các ngành khai thác tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Đây là cơ cấu không mong đợi, bởi vì vốn đầu tư vào khai thác tài nguyên, thì không có tác dụng lan tỏa; vốn đầu tư vào các ngành bảo hộ không có sức cạnh tranh, thì chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng, kéo lùi khả năng cạnh tranh; vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng, còn hậu quả và chi phí khắc phục thì ta chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể làm căng thêm "bong bóng", dễ gây ra bất ổn.
Trong khi đó, đầu tư vào kết cấu hạ tầng, công nghiệp phụ trợ còn ít. Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các nước châu Á (69%, riêng Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24% (trong đó Euro 10%), châu Mỹ mới chiếm 5% (riêng Mỹ 3,6%), các nước G8 mới chiếm 23,7%, nên chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ nguồn. Có một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu, thậm chí là những phế thải của các nước khác. Cơ cấu đầu tư theo địa bàn cũng tập trung vào các tỉnh, thành phố có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, trong khi đó các vùng cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển như miền núi, vùng sâu, vùng xa... còn ít.
Nhân đây cũng cần nói rõ thêm về những con số FDI. Có một số người đã có sự nhầm lẫn giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện. Vốn đăng ký mới là số vốn của các dự án mới được cấp giấy phép hoặc giấy chứng nhận đầu tư, mới chỉ là khả năng chưa phải là số vốn thực hiện, tức là chưa biến thành hiện thực. Số vốn FDI không hoàn toàn là vốn đầu tư của nước ngoài, bởi có một tỷ lệ (khoảng 30%) là sự góp vốn của các nhà đầu tư trong nước (chủ yếu bằng quyền sử dụng đất). Khi lũy kế số vốn đăng ký qua các năm, cần phải loại trừ số vốn của các dự án bị rút giấy phép và bị giải thể trước thời hạn (chẳng hạn, năm 2005, số vốn của các dự án bị rút giấy phép là 1,27 tỉ USD, chiếm gần 18,6% tổng vốn đăng ký trong năm đó; tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, tổng số dự án là hơn 9.500, với số vốn đăng ký lên đến xấp xỉ 100 tỉ USD - kể cả vốn tăng thêm - nhưng nếu trừ những dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, thì chỉ còn 8.599 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 83,1 tỉ USD).
Nguồn: Thanh Niên
