
Tin tức
Đầu tư công: Không cắt giảm kiểu bình quân chủ nghĩa (28/04)
06/08/2010 - 81 Lượt xem
Chỉ tiêu tăng trưởng, cơ sở tính bước đi của Chính phủ
- Chính phủ đã chính thức đề nghị Quốc hội xem xét hạ chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế. Quốc hội cũng đã cảnh báo về việc không nên say sưa con số tăng trưởng. Cá nhân ông nghĩ như thế nào về việc này?
Điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng là cần thiết khi ta đã điều chỉnh mục tiêu phát triển. Trước, ta xem tăng GDP là quan trọng, kiềm chế lạm phát chỉ là nhiệm vụ thứ hai. Bây giờ chống lạm phát được nâng lên làm nhiệm vụ hàng đầu, chắc chắn nhiệm vụ tăng trưởng phải giảm. Khi anh đã đổi chiến lược tăng trưởng của đất nước, tốc độ tăng trưởng bị giảm là chuyện tất yếu.
Một nền kinh tế thị trường mà không có chỉ tiêu thì không thể giám sát hoạt động được. Điều hành thì phải có mục tiêu để xây dựng chính sách và vận hành bộ máy.
Nếu đưa chỉ tiêu tăng trưởng GDP là 7% thì kèm theo đó, sẽ cân đối ngân sách xem thu ngân sách, thu thuế trong năm là bao nhiêu, thuế từ DN, các khoản thu khác bao nhiều. Từ đó cân đối các khoản chi nếu anh muốn giữ ổn định đời sống nhân dân thì cần bao nhiêu, 10 hay 20 tỷ USD? Từ đó sẽ thấy ngay, con số bội chi ngân sách là bao nhiêu nếu muốn giữ ổn định đời sống người dân. Ít nhất phải có con số để dự kiến tăng GDP 7%, giữ đời sống ổn định đời sống, Chính phủ phải bỏ thêm bao nhiêu.
Lúc đó, Chính phủ phải liệu là với số thiếu hụt ấy, Chính phủ xử lý từ đâu ra? Giải quyết bội chi ngân sách bằng cách nào? In tiền đưa vào thị trường trong bối cảnh lạm phát cao như hiện nay? Có nên đi vay không? Nếu vay thì như thế nào. Chính phủ phải cân đối tất cả những nội dung đó.
Nghĩa là con số chỉ tiêu đặt ra là cơ sở để Chính phủ lượng, bấm đoán những bước cần thiết tiếp theo.
Vấn đề là đặt ra chỉ tiêu tăng trưởng 6,5%, 7% hay 7,5% sát nhất với tình hình thực tế mới là yêu cầu, là cái chúng ta cần phải bàn, nhiều người cần góp sức bàn xem ở mức nào là hợp lý.
Không cắt giảm kiểu bình quân chủ nghĩa
- Cá nhân người dân góp sức như thế nào?
Trong bài toán tăng trưởng ấy, đối với Việt Nam bao giờ cũng gắn với bài toán đầu tư. Trong tình hình như thế này, người dân đầu tư như thế nào? Người ta định mua một cái ô tô, người ta có mua nữa không? Người ta định xây một cái nhà, người ta có xây trong năm nay không? Là DN, người ta có đầu tư phát triển trong năm nay không? Người ta có bỏ tiền túi để làm hay đi vay ngân hàng để làm? Đó là bài toán đầu tư.
Riêng với đầu tư của nhà nước, hiện phải rất lưu ý Quốc hội và Chính phủ yêu cầu và quyết định không cắt giảm tổng đầu tư từ ngân sách nhà nước là 102 nghìn tỉ đồng. Trước mắt giữ ở mức đó, dù giá năm nay tăng. Đó cũng là tiết kiệm rồi.
Đồng thời, Chính phủ cho phép các DN, địa phương, các bộ chuyển vốn từ dự án này sang dự án khác hiệu quả hơn, đình, dừng các dự án kém hiệu quả. Nó đòi hỏi cả ba phía, Nhà nước, DN và người dân đều phải góp sức.
Tuy nhiên, tiết kiệm không nên hiểu theo cách máy móc, tức là cắt giảm cái rụp, dừng hẳn một con đường. Những dự án, công trình đảm bảo đời sống của dân cư ta không cắt giảm mà vẫn tiếp tục triển khai, trên cơ sở tính toán hiệu quả vốn đầu tư, ví dụ, tiếp tục triển khai xây bệnh viện để người dân được hưởng chăm sóc y tế, xây mới những con đường, nhưng tính toán lại, có thể ban đầu trong thiết kế là 4 làn đường nhưng chỉ xây 2 làn được trước, và vẫn giải phóng mặt bằng để triển khai sau 2 làn được còn lại khi có điều kiện.
- Vừa rồi Quốc hội đã cùng Chính phủ thảo luận về các tiêu chí siết chặt đầu tư công?
Hiện nay, UB Kinh tế của Quốc hội nhất trí đề nghị nguyên tắc trong cắt giảm đầu tư của Chính phủ: Một là cắt giảm dựa trên cơ sở hiệu quả đầu tư, hai là cắt giảm nhưng không cắt giảm ở khu vực an sinh xã hội, ba là không cắt giảm theo kiểu bình quân chủ nghĩa, tỉnh nào, bộ nào cũng phải cắt 10%. Chúng ta sẽ cắt có chọn lọc, có ưu tiên. Sẽ có nơi, có khu vực cắt nhiều và có tỉnh không bị cắt.
Bản thân Quốc hội cũng sẽ xem xét tự cắt giảm đầu tư từ ngân sách. Ví dụ, có thể toà nhà Quốc hội sẽ không khởi công trong năm 2008 này.
Rút ngắn thời gian tiền về đến tay dân
- Ông có thể nói cụ thể hơn các giải pháp mà Quốc hội và Chính phủ bàn để giúp người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương giảm thiểu tác hại trong tình trạng lạm phát cao?
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để hỗ trợ cho người dân, đặc biệt là khu vực dễ bị tổn thương. Trước hết, với cán bộ viên chức, nhà nước thực hiện tăng lương. Đầu 2008, áp dụng mức lương mới, trong đó, có tính yếu tố trượt giá của năm 2007 đảm bảo chất lượng đời sống của những người hưởng lương. Tuy nhiên, cộng với trượt giá mới của năm 2008, tăng lương chưa giải quyết được toàn bộ vấn đề đảm bảo đời sống. Để giải quyết bài toán về lương như ta mong muốn trong năm 2008 sẽ là rất khó, và không thể làm được.
Thực ra, ở đây chính là tinh thần cả nướcvì một số người, một số khu vực, không phải nghiễm nhiên người ta được hưởng như thế. Tiền hỗ trợ nhà nước lấy ở đâu ra? Cũng từ tiền thuế của người dân và các doanh nghiệp ở những địa phương khác nộp, nay Nhà nước trích một phần hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn, theo tinh thần "lá rách ít đùm lá rách nhiều".
Vấn đề Quốc hội và Chính phủ cần bàn là làm sao để tiền hỗ trợ này đến được với người dân nhanh nhất. Quy trình thủ tục hành chính như thế nào cho phù hợp để người dân sớm có vốn để tái sản xuất, khắc phục khó khăn, ổn định đời sống. Từ đó, áp lực tăng giá lương thực thực phẩm sẽ giảm đi.
Bên cạnh độ trễ do quy định hành chính này, còn có độ trễ khách quan do chu kì vật nuôi gia súc. Với trâu bò bị chết, 1 triệu hỗ trợ không mua được con trâu khác, nhưng hơn nữa thì cũng khó. Thời gian để con nghé, thành còn trâu có sức kéo được phải 1-2 năm. Điều này gây áp lực lớn đến hiệu quả của việc khắc phục thiên tai, vì không thể làm nhanh như ta mong muốn.
- Chúng ta đã có giải pháp gì để khắc phục độ trễ chủ quan, do quy định hành chính phức tạp?
Biện pháp duy nhất là cán bộ phải làm thêm giờ, kể cả thứ 7, Chủ nhật. Khi có thông báo tiền đến địa phương, phải nỗ lực tối đa để đưa tiền đến với dân. Những quy trình thủ tục vẫn phải tuân thủ, không thể vi phạm luật vì chúng ta đang sử dụng ngân sách nhà nước, chỉ rút ngắn thời gian cho mỗi quy trình đó.
Đưa hệ thống an sinh xã hội về cơ sở
- Tuy nhiên, những giải pháp hỗ trợ trâu bò chết, lợn dịch... chỉ là những giải pháp tình thế, trong tình hình bất ổn. Ta đã bàn biện pháp nào để xây dựng hệ thống an sinh xã hội lâu dài cho người dân, đặc biệt là người nghèo được tiếp cận?
Hiện nay chúng ta đã triển khai chương trình 134, 135 của Chính phủ, theo đó, các hộ nghèo được cấp bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí... Nông dân chỉ chưa có chế độ lương hưu.
Những trẻ em dưới 6 tuổi được khám chữa bệnh miễn phí. Chúng ta lại đầu tư xây dựng các bệnh viện tuyến huyện, xây dựng trường học ở vùng sâu, vùng xa. Nghĩa là, ta đang đưa dần hệ thống an sinh xã hội về huyện, từ các tỉnh về đến cơ sở. Cái khó là đẩy khu vực nông thôn phát triển toàn diện cả về kinh tế, xã hội, văn hóa.
Sau năm 2020, khi nước ta đã công nghiệp hoá, ngân sách nhà nước lớn hơn, số người ở khu vực nông thôn cũng ít đi, cơ hội tiếp cận an sinh xã hội và khả năng đảm bảo an sinh xã hội cho người dân cũng sẽ lớn hơn. Tuy nhiên, việc này cần phải có lộ trình.
Đầu tư không hoàn được vốn mới là lãng phí
- Trở lại câu chuyện về đầu tư công, một nguyên tắc lớn của cắt giảm là dựa trên tiêu chí hiệu quả đầu tư. Tuy nhiên, cơ sở nào để xem xét hiệu quả của các dự án?
Ngay từ khi thành lập dự án, các thông số kỹ thuật, thông số kinh tế đã sẵn có. Đây chính là căn cứ để xác định tính hiệu quả và tính cần thiết của một dự án đầu tư.
Vấn đề ở đây là công trình xây xong nhưng không hoàn được vốn mới là lãng phí lớn. Những tính toán về lợi ích và hiệu quả đầu tư rất khó đo đếm.
Ví dụ, cách đây 20 năm, khi cầu Thăng Long đi vào sử dụng đã bị chỉ trích nặng nề. Nhưng sau 10 năm mọi người đều công nhận hiệu quả tích cực của cây cầu này.
Mọi người đặt câu hỏi, cái sai của lúc ấy là gì mà sao mọi người lại nêu? Thực ra, vấn đề nằm ở chỗ, đoạn đường nối hai đầu cầu Thăng Long mãi không làm được, đặc biệt là đoạn phía Nam cầu mãi không làm được. Sau 10 năm cũng chỉ nối được đến trung tâm Hội nghị quốc tế, mà nếu không có APEC 2006 chắc cũng không nối được. Lỗi của chúng ta nằm ở đấy. Đây là lỗi của người đi sau, người thực hiện, không phải lỗi của người ra quyết định xây cầu ở vị trí đó. Cầu Thăng Long đã phát huy tác dụng rất tốt.
Trong nhiều trường hợp, chúng ta phải chấp nhận lỗ kế hoạch. Ngay cả xây dựng nhà máy, khi ra sản phẩm mới, người ta còn cho phép vài ba năm đầu lỗ. Vấn đề bài toán lỗ trong kinh tế thị trường phải nhìn cả quãng đời của dự án đầu tư.
Quy trách nhiệm và xử lý cán bộ quyết định đầu tư sai
- Vấn đề hiệu quả đầu tư được bàn đến từ lâu. Ngay từ 2005 đã được xem là năm điểm trong rà soát hiệu quả đầu tư. Nhưng bài toán vẫn chưa có lời giải sau nhiều năm?
Đúng là chúng ta đã ý thức và bàn vấn đề này khá lâu. Giải bài toán này trong lúc thực lực của nền kinh tế, của địa phương như hiện nay là cả một vấn đề.
Về thời điểm năm 2005, vấn đề trở nên nhức nhối chính là nợ do xây dựng cơ bản quá lớn. Sau đó, chúng ta đã thanh toán rất tốt các nợ xây dựng cơ bản. Nợ trong xây dựng cơ bản đã giải quyết được bước lớn, cơ bản.
- Chúng ta phàn nàn về các dự án bị kéo dài, lãng phí, thất thoát, nhưng thực tế, mỗi năm hàng loạt dự án mới mà chưa biết hiệu quả như thế nào?
Một nguyên nhân của tình trạng này chính là văn hoá nhiệm kỳ của ta. Mỗi người bao giờ cũng muốn báo cáo trong nhiệm kỳ của mình thu hút được bao nhiêu dự án đầu tư, bao nhiêu công trình cho địa phương.
- Không thể nói là do văn hoá nhiệm kỳ mãi được. Phải quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân, đơn vị nhất định. Việc quy trách nhiệm đối với các trường hợp lãng phí, thất thoát hiện như thế nào?
Việc quy trách nhiệm và xử lý những đối tượng gây thất thoát, lãng phí, chúng ta đã thực hiện nhiều. "Cảo thơm lần giở", chúng ta sẽ thấy, vào những năm 1996, 1997, phần đông những người ra quyết định thành lập các nhà máy mía đường ở một loạt tỉnh đều bị xử lý hết. Tất nhiên, ở đây có vấn đề khách quan, khi chuyển từ quản lý nông nghiệp sang quản lý công nghiệp, lãnh đạo các nơi lúng túng, không biết xử lý ra sao với những vấn đề mới phát sinh.
Với văn hoá nhiệm kỳ cộng năng lực chuyên môn yếu, từ tỉnh nông nghiệp nên khi quản lý công nghiệp, họ gặp những khó khăn.
Đối với những đối tượng gây thất thoát, lãng phí, ta đều có xử lý. Ta thực hiện nguyên tắc xử lý cán bộ đúng với khuyết điểm mà anh em mắc phải, có xét đến hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nếu có tư lợi cá nhân thì truy tố, còn nếu do trình độ thì thực hiện điều chuyển, thôi không giữ chức danh lãnh đạo.
Quốc hội và Chính phủ có "cãi" cũng chỉ là về liều lượng
- Việc phân cấp đầu tư về địa phương cũng khiến nảy sinh nhiều vấn đề?
Phân cấp là đúng, nhưng ở trong điều kiện của Việt Nam, thì phải có lộ trình, tập làm quen đi. Vừa rồi ta làm phân cấp cái rụp, mạnh tay quá. Hiện không có gì thay đổi thì ta sẽ điều tiết, khống chế qua quy hoạch. Đồng thời, ta tiến hành nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức được giao làm nhiệm vụ đó.
- Cơ chế giám sát như thế nào để đảm bảo hiệu quả các dự án khi đã phân cấp?
Việc giám sát vẫn được thực hiện thường xuyên qua các tổ công tác. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội khác cũng thực hiện giám sát, đặc biệt là vai trò của mặt trận.
Hiện nay, quan niệm của chúng ta là mặt trận là của những đồng chí đã về hưu. Mà thực tế, đa phần những đồng chí đã về hưu thì đi làm mặt trận. Mặt trận muốn giám sát, phản biện phải tập hợp được tất cả những ai có tâm huyết, có khả năng tham gia. Mặt trận phải đóng đúng vai thì mới thực hiện tốt chức năng, và thực hiện tốt quyền giám sát.
- Giám sát trong Quốc hội thì như thế nào?
Quốc hội giám sát qua ba kênh: qua tiếp xúc cử tri; qua thông tin phản ánh trực tiếp từ người dân; qua giám sát của các ĐBQH và qua báo cáo của Chính phủ. Tuỳ từng trường hợp mà hình thức nào được coi trọng và giữ vai trò lớn hơn.
Trong Quốc hội, các đại biểu đang từng bước trở thành nghị sĩ chuyên nghiệp, thể hiện qua số nghị sĩ chuyên trách tăng lên nhanh.
- Dư luận qua các kì họp vừa qua cho rằng, số nghị sĩ dám nói, dám phát ngôn và phát ngôn phản biện có chất lượng có xu hướng giảm?
Điều này cũng có nguyên do của nó. Trước khi đưa ra bàn tại Quốc hội, những nội dung này đã được các đại biểu thảo luận nhiều lần, qua nhiều kênh, từ cơ quan đảng, cơ quan nhà nước nước và ở Đoàn đại biểu quốc hội từng địa phương rồi mới ra Quốc hội. Do đó, khi bàn ở Quốc hội, các ý kiến khác không còn nhiều.
Chúng ta xác định, mục tiêu của Chính phủ và Quốc hội là giống nhau. Mỗi người đứng từ góc độ khác nhau nói khác nhau. Quốc hội cố gắng tối đa để nói tiếng nói của người dân khi bị tác động từ hoạt động của cơ quan hành pháp.
Nghĩa là về cơ bản, mục tiêu của Chính phủ và Quốc hội là thống nhất. Có "cãi", trao đổi, tranh luận chẳng qua là liều lượng như thế nào, biện pháp nào là cần làm trước, biện pháp nào làm sau, hoặc là yêu cầu phải bổ sung thêm những vấn đề mà cử tri quan tâm, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân không bị ảnh hưởng.
- Xin cảm ơn ông!
Nguồn: Vietnamnet
