Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tháng 04- 2008

06/08/2010 - 28 Lượt xem

TỔNG HỢP TIN KINH TẾ NỔI BẬT

1. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát

a. Tăng trưởng kinh tế

Theo báo cáo chung của các bộ ngành, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng từ cuối tháng 3, đầu tháng 4 các ngành các lĩnh vực kinh tế bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4 tăng 16,8%, mức tăng này cao hơn so với mức tăng của quý I/2008 nhưng thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước. Sản xuất nông nghiệp tuy bị ảnh hưởng của khi hậu khắc nghiệt được dự báo không giảm nhiều so với cùng vụ các năm trước. Kim ngạch xuất khẩu tháng 4 đạt 18,2 tỷ USD, tăng 27,6% so với cùng kỳ. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 tháng đầu năm ước đạt 7,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 41% so với cùng kỳ các năm trước…

b. Tình hình lạm phát

Tình hình lạm phát, giá cả tăng cao trong 4 tháng đầu năm, nhưng đang có xu hướng giảm dần. Theo thông báo chính thức của Tổng cục thống kế, chỉ số giá tiều dùng (CPI) tháng 4/2008 đã tăng 2.2% sới tháng 3/2008 và tăng 17,67% so với 4 tháng đầu năm 2007. Mức tăng chậm lại của CPI (tháng 1 tăng 2,38%, tháng 2 tăng 3.56%, tháng 3 tăng 2,99%) cho thấy các chính sách bình ổn của Chính Phủ bước đầu đã phát huy hiệu quả. Trong các nhóm hàng tăng giá đáng chú ý là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhà ở và vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại và bưu điện, dược phẩm và y tế, đồ dùng gia đình … mức tăng giá cao ở các nhóm hàng này ảnh hưởng trực tiếp và rất mạnh đến đời sống của người dân, nhất là khố công chức và người nghèo.

Ngày 27/04/2008 tại cuộc giao ban, Thủ tướng chính phủ đã nhấn mạnh cần tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo Thủ tướng, các tỉnh, thành phố cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc, đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, đầu tư xây dựng các công trình thiết yếu, bảo đảm đủ vốn cho sản xuất, xuất khẩu và hạn chế nhập siêu. Bên cạnh đó, ngày 22/4, Chính phủ đã chính thức trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội việc điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế GDP năm 2008 từ 8,5-9% xuống khoảng 7%. Trong đó, giá trị tăng thêm của nông, lâm, thủy sản có chỉ tiêu mới là 3%, công nghiệp - xây dựng 8,1%, dịch vụ 8%,... Theo ý kiến của các chuyên gia việc điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế là hợp lý trong điều kiện hiên nay. Tuy nhiên, họ cho rằng cần phải xem xét đâu là cơ sở cho những chỉ tiêu mới và nên cân nhắc thận trọng những chỉ tiêu tăng trưởng khi mà vẫn còn những yếu tố có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế - xã hội mà chúng ta chưa lường hết, như diễn biến của thiên tai, dịch bệnh, giá nhiên liệu, lương thực trên thế giới…

Để thực hiện được mục tiêu này, Chính phủ cũng sắp xếp lại thứ tự, đồng thời nhấn mạnh các giải pháp trọng tâm trong công tác điều hành. Về chính sách tài khóa, chi tiêu công, thực hiện tăng thu, thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, giảm bội chi ngân sách. Trong đó, kế hoạch đầu tư phát triển sẽ phải sắp xếp, bố trí lại theo hướng không tăng tổng vốn đầu tư dự án từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, đình hoãn khởi công các dự án không có trong quy hoạch, chưa đủ thủ tục, ngừng triển khai các dự án chưa thật sự cấp bách, không mang lại hiệu quả, giãn tiến độ một số dự án khác bị kéo dài thời gian thi công hoặc vướng mắc trong giải phóng mặt bằng... Số vốn từ những dự án này được điều chuyển cho những dự án có hiệu quả, cấp bách, hoàn thành trong năm 2008-2009.

Cũng trong hệ thống chính sách này, thị trường chứng khoán, bất động sản sẽ được điều hành theo hướng phát triển ổn định, giãn tiến độ IPO để không tạo ra sức ép cung hàng hóa quá lớn, bảo đảm chỉ các cổ phiếu có chất lượng mới được lưu hành trên thị trường. Trong điều hành, Chính phủ cũng sẽ hết sức chú trọng bảo đảm cân đối cung cầu đối với các loại vật tư, hàng tiêu dùng thiết yếu như xăng dầu, điện, xi măng, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu, lương thực, thuốc chữa bệnh,... bằng nhiều biện pháp từ sản xuất đến xuất nhập khẩu, chính sách thuế.

Về điều hành giá cả: theo dõi sát diễn biến thị trường và biến động giá, đẩy mạnh cung và quản lý chặt, ngăn chặn đầu cơ tăng giá. Trước mắt chưa tăng giá điện, than, xăng dầu, giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa.

Theo ý kiến của các chuyên gia, thời gian tới, trong nhóm các giải pháp tiền tệ cần nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong kiềm chế lạm phát và khai thông thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thực hiện nhất quán, đồng bộ chính sách thắt chặt tiền tệ, bảo đảm kiểm soát tăng tổng phương tiện thanh toán ra thị trường không quá 25-30%.

Về nhóm giải pháp tài chính, có ý kiến đề nghị chưa thực hiện việc giảm vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước mà chỉ thực hiện các biện pháp rà soát, cắt giảm, cho dừng những dự án chưa cấp bách hoặc kém hiệu quả. Đưa vấn đề hiệu quả vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng nhất trong năm 2008 để rà soát lại các danh mục đầu tư đã được phê duyệt.

2. Tài chính - ngân hàng

Ngày 02/04/2008 các Ngân hàng chính thức áp dụng trần lãi suất huy động mới theo đó lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại cao nhất là 11%/năm. Tuy nhiên sau khi áp dụng trần lãi suất đã dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác nhau cho người gửi tiền người vay tiền và chính các Ngân hàng thương mại. Các khó khăn được nhắc tới hiện nay như:

Một là, theo phản ánh của các Ngân hàng Thương mại (NHTM), do duy trì lãi suất huy động thấp nên dòng chảy vào các ngân hàng dần bị thu hẹp. Mặt khác cùng một lợi ích thu được như nhau người gửi tiền sẽ chỉ gửi vào các ngân hàng lớn vì mức độ an toàn cao hơn. Vì vậy, các NHTM nhỏ bị đẩy vào tình trạng thanh khoản kém.

Hai là, việc khống chế lãi suất đầu vào nhưng lại thả nổi lãi suất cho vay đã làm cho chi phí vốn của doanh nghiệp thêm nặng nề khi mặt bằng chung lãi suất cho vay ngắn hạn vẫn là 18,42%/năm và dài hạn là 21,85%/năm.

Ba là, do vấn đề khống chế lãi suất nên “mong mỏi’ lãi suất thực dương đối với những người gửi tiền trở nên xa vời. Theo ý kiến của các chuyên gia, giả định lạm phát năm 2008 là 12,63% (như năm 2007) thì muốn thực dương, lãi suất tiền gửi phải là 17%/năm. Với mức lãi suất này, đầu tra cho người vay phải lên tới 20%.

Như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hiện đang rất lúng túng trong việc giải bài toán lãi suất với hàng loạt các vấn đề: bỏ hoặc không bỏ trần lãi suất huy động, duy trì trần lãi suất huy động cũng như trần lãi suất cho vay. Một số chuyên gia nêu quan điểm: nên bỏ khống chế trần lãi suất vì đó là một nỗ lực trong nhiều năm liền của ngành ngân hàng nhằm điều hành thị trường tiền tệ theo hướng thị trường. Mặt khác việc bỏ khống chế trần lãi suất còn thu hút bớt tiền ngoài lưu thông, góp phần giảm lạm phát.

Bên cạnh đó, Tình trạng khan hiếm vốn của các ngân hàng tiếp tục diễn ra. Để lý giải tình trạng khan hiếm vốn của các ngân hàng thương mại, nhiều chuyên gia cho rằng có các nguyên nhân như sau:

Thứ nhất, do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng thương mại bị khống chế hạn mức tín dụng có tính chất bình quân, cào bằng như nhau là tăng trưởng dư nợ không quá 30% đến hết năm 2008 và lãi suất cho vay tăng lên quá cao, nên các doanh nghiệp, đông đảo khách hàng khác rất khó vay được vốn ngân hàng. Bởi vậy các doanh nghiệp giảm tiền gửi của mình để chuyển sang sử dụng cho đầu tư. Một số doanh nghiệp cho đối tác kinh doanh của mình vay. Các tập đoàn cũng sử dụng vốn tiền gửi của mình để cho các đơn vị thành viên, công ty con vay,...

Thứ hai, theo dự kiến, tháng 6/2008 là thời điểm rút toàn bộ 52.000 tỷ đồng tiền gửi của Kho bạc Nhà nước đang gửi tại các ngân hàng thương mại Nhà nước về Ngân hàng Nhà nước, nên chủ trương này đang được thực hiện theo lộ trình, nếu không sẽ "gây sốc" về nguồn vốn của ngân hàng thương mại.

Thứ ba, tiền gửi chờ thành lập ngân hàng thương mại cổ phần và Công ty tài chính cổ phần, của nhiều doanh nghiệp, cá nhân, nay chuyển sang tài khoản tiền gửi phong toả tập trung tại một định chế được lựa chọn cho chuẩn bị xin cấp giấy phép và khai trương hoạt động.

Thứ tư, thị trường chứng khoán sụt giảm, giá cổ phiếu trên thị trường OTC xuống quá thấp, hàng loạt nhà đầu tư thua lỗ, thụt vốn. Bởi vậy tiền của các nhà đầu tư gửi tại ngân hàng thương mại cũng sụt giảm theo. Bên cạnh đó số dư trên tài khoản của nhà đầu tư tại các công ty chứng khoán cũng giảm; đồng thời hàng loạt công ty chứng khoán bị thua lỗ trong nhiều danh mục đầu tư từ đầu năm đến nay. Hai nhân tố này làm giảm số dư tiền gửi của công ty chứng khoán tại các ngân hàng thương mại.

Thứ năm, từ đầu năm đến nay thị trường vàng biến động mạnh, trong điều kiện chỉ số tăng giá tiêu dùng (CPI) ở mức cao, nên một lượng đáng kể tiền của người dân được đầu tư vào vàng. Một số thông tin đã công bố cho hay, từ đầu năm 2008 đến nay trên 40 tấn vàng đã được nhập khẩu về Việt Nam, trị giá trên 1,2 tỷ USD, trong đó ước tính 60% đã bán ra dân chúng.

Thứ sáu, thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường bất động sản chững lại, giá hạ nhưng cũng rất ít giao dịch. Chứng khoán và bất động sản không bán được, tiền không trở lại với nhà đầu tư, thì lấy đâu ra để gửi ngân hàng.

Thứ bảy, các thông tin về tăng thuế và tăng giá đối với ô tô liên tục được đưa ra, nên nhiều người có kế hoạch mua ô tô đã phải nhanh chóng rút tiền gửi tại ngân hàng, vay thêm bạn bè, người thân và tìm kiếm nguồn khác để chớp thời cơ mua.

Thứ tám, nguồn tiền trong dân cũng có giới hạn. Sau các đợt tăng lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại từ cuối tháng 2/2008 đến nay, người dân đã tập trung gửi vào ngân hàng thương mại thời điểm lãi suất cao, lại còn được khuyến mại quay thưởng, tặng quà,... đến nay không còn tiền để gửi.

Các nguyên nhân nói trên cũng cho thấy, thị trường tiền tệ sẽ còn tiếp tục nóng lên. Để hạ nhiệt lãi suất, đặc biệt là giảm lãi suất cho vay đang ở mức quá cao như hiện nay thì cần có sự linh hoạt trong điều hành chính sách của cơ quan chức năng. Bởi vì sản xuất kinh doanh phát triển, chi phí vốn vay giảm, số đông người lao động có thêm việc làm,... mới là nền tảng vững chắc cho kiềm chế lạm phát.

3. Thị trường chứng khoán.

Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục chứng kiến những diễn biến hết sức phức tạp. Từ ngày 7/04/2008 thị trường chứng khoán áp dụng biên độ giao động giá mới. Tại HoSTC là 2% và tại HaSTC là 3%. Đây được coi là một sự thay đổi thận trọng, không quá rộng để có thể tạo ra những biến động lớn, nhưng cần thiế cho khả năng cải thiện tính thanh khoản và thay đổi giá rõ rệt hơn, nhà đầu tư có thêm lợi suất đầu tư hấp dẫn và thêm các bước giá để lựa chọn. Động thái này của ửy ban chứng khoán nhà nước được coi là một dấu hiệu tích cực trong việc khôi phục lòng tin và tâm lý của các nhà đầu tư. Trên thực tế, sau khi áp dụng biên độ tỷ giá mới thị trường chứng khoán đã có dấu hiện phục hồi và phát triển. Tuy nhiên sau 11 phiên tăng điểm liên tiếp thị trường chứng khoán lại chứng kiến những phiên giảm điểm khó hiểu, dư mua trên các sàn rải rác trong khi dư bán tràn ngập.

Lý giải cho điều này, theo ý kiến của các chuyên gia diễn biến trên là kết quả nối tiếp những tác động bất lợi của thị trường tiền tệ, cùng với những diễn biến phức tạp của lãi suất ngân hàng và tính thanh khoản của ngân hàng gặp khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế vĩ mô tiếp tục có những bất ổn đó là: tình trạng lạm phát gia tăng và ở mức cao, mục tiêu tăng trưởng kinh tế chính tức được đề nghị điều chỉnh giảm. Trong khi đó nền kinh tế thế giới đón nhận những dự báo bi quan và nhiều lo ngại, giá dầu thế giới đang trong con bão tăng giá gây áp lực về việc tăng giá xăng dầu trong nước.

Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam đang đón nhận những thông tin tích cực, có thể tác động tới sự phục hồi và phát triển của thị trường. Đáng chú ý là cuộc họp về định hướng phát triển thị trường của Bộ tài chính, trong đó xác định những giải pháp hỗ trợ và hoàn thiện hơn trong dài hạn, thay cho những giải pháp mang tính chất tình thế như thời gian vừa qua. Bộ Tài chính đã đưa ra 5 kế hoạch các kế hoạch này tập trung khắc phục những vấn đề đang còn tồn tại của thị trường và xây dựng những đề án, giải pháp… phục hồi thị trường. Cụ thể:

Một là, thực thi các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán có tổ chức đồng thời với việc hạn chế rủi ro của thị trường tự do. Nghiên cứu ban hành quy định về phát hành chứng khoán riêng lẻ.

Hai là, nghiên cứu để sửa đổi các quy định theo hướng nâng cao tiêu chuẩn đối với phát hành chào bán chứng khoán, cấp phép thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.

Ba là, sửa đổi hoặc bổ sung các quy định liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán; quy chế hoạt động và cung cấp dịch vụ; thành lập công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài, các biện pháp kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Bốn là, xây dựng đề án giải pháp, phòng ngừa rủi ro và xử lý khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Năm là, đổi mới cơ chế quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; cơ chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam; tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ và đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty và doanh nghiệp Nhà nước để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh để báo cáo và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp tăng cường quản lý và hướng dẫn hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế.

Bên cạnh đó, thông tin từ Tổng cục thống kê cho biết lạm phát tháng 4 đã giảm tốc như dự tính, cho thấy kết quả bước đầu của các giải pháp mà Chính phủ đồng loạt triển khai trong thời gian qua. Ngoài ra, thông điệp đẩy mạnh hỗ trợ vốn cho các Ngân hàng thương mại từ Ngân hàng Nhà nước, thông qua hình thức tái cấp vốn cũng đã góp phần giảm bớt lo ngại căng thẳng vốn trên thị trường ngân hàng, gián tiếp hạn chế tác động bất lợi đối với thị trườn chứng khoán.

4. Thị trường Bất động sản

Theo đánh giá của các chuyên gia thị tốc độ tăng của thị trường Bất động sản (BĐS) tại Việt Nam là khá lớn với nhiều dự án đầu tư và sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp. Theo thống kê mỗi năm cả nước có thêm 37 triệu m2 nhà ở đô thị. Sự phát triển mạnh của nền kinh tế và làn sóng đầu tư tăng cao nên nhu cầu về văn phòng, khách sạn… cũng đang tăng nhanh. Bên cạnh đó, một số chính sách cởi mở của nhà nước như người dân được mua nhà ở các đô thị mà không cần hộ khẩu, dự kiến mở rộng đối tượng Việt kiều được mua nhà và cho phép thực hiện thí điểm người nước ngoài mua nhà ở Việt Nam… Điều này làm tăng khả năng phát triển của thị trường BĐS Việt Nam và thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoầi nước. Tuy nhiên, thị trường BĐS Việt Nam vẫn chứa đựng những bất ổn, những bất ổn đó phát sinh từ chính quá trình phát triển và thực tế vận hành của thị trường. Theo ý kiến của các chuyên gia, nguyên nhân của sự bất ổn trên thị trường bắt nguồn từ sự không chuyên nghiệp và thiếu minh bạch, hầu hết các dự án BĐS đều tuân theo cơ chế xinh cho, điều chỉnh quy hoạch, chưa có cơ chế cung cấp thông tin cho thị trường BĐS, việc cho vay dễ dãi của các ngân hàng (nhất là cho vay BĐS) lại tập trung vào một phân khúc thị trường hẹp làm tăng đầu cơ, tạo cầu ảo, làm mất ổn định thị trường. Bên cạnh đó là tình trạng giao dịch ngầm không qua sàn giao dịch , đầu cơ nhà đất kích cầu ảo để nâng giá nhà đất gây ra tình trạng giá ảo trên sàn giao dịch, làm tăng mức độ rủi ro trong kinh doanh BĐS. Hơn nữa, tình trạng đầu tư quá lớn vào BĐS thiếu kế hoạch làm cho thị trường phát triển không bền vững. Hiện nay, giá BĐS của Việt Nam được đánh giá là đang ở mức cao trên thế giới, điều này làm tăng chi phí kinh doanh và giảm sức cạnh tranh về chi phí kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực.

Gần đây một số ý kiến cho rằng, để kiềm chế lạm phát, Chính phủ đang chủ trương thắt chặt cho vay đối với các dự án bất động sản (BĐS). Điều này gây tâm lý không thuận lợi trong xã hội, đặc biệt là với các nhà đầu tư có dự án triển vọng đang cần nguồn vốn ngân hàng để triển khai thực hiện, người dân cần vốn vay để mua nhà ở... Theo ý kiến của các chuyên gia, nhận định như vậy là chưa chính xác. Để kiềm chế lạm phát có nhiều giải pháp, trong đó các chính sách về tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế tốc độ tăng trưởng tín dụng quá lớn, cho vay đầu tư các dự án quá dễ dãi. Thực tế thời gian qua cho thấy, nguồn vốn trong và ngoài nước đổ vào BĐS quá lớn, đẩy giá BĐS trong nước lên quá cao, bất hợp lý so với mức độ của nền kinh tế.

Theo thứ trưởng Bộ xây dựng Trần Văn Nam, chủ trương của Chính phủ đối với thị trường BĐS trong mục tiêu kiềm chế lạm phát hiện nay là thắt chặt đầu tư công, cắt giảm các dự án chưa thật cần thiết, quản lý chặt chẽ hơn để nguồn tín dụng đổ vào thị trường BĐS một cách đúng đắn, nhất là hạn chế tình trạng đầu cơ, mua đi bán lại kiềm lời làm méo mó thị trường, tạo sốt ảo đẩy giá BĐS lên cao… Mặt khác, Chính phủ vẫn “bật đèn xanh” với việc tài trợ vốn cho các dự án tốt, hỗ trợ doanh nghiệp để có thể nhanh chóng tạo ra hàng hoá cho thị trường, trong đó tập trung vào các loại BĐS thiết yếu để đáp ứng nhu cầu nhà ở đô thị và nhà xưởng, văn phòng cho sản xuất, kinh doanh. Đồng thời hỗ trợ vốn cho người dân có nhu cầu chính đáng về nhà ở… để tiếp tục kích cầu thị trường hàng hoá BĐS có sự kiểm soát chặt chẽ.

Theo nhận xét của các chuyên gia, các biện pháp kiềm chế lạm phát đang triển khai đã từng bước đẩy lùi được hiện tượng đầu cơ trong kinh doanh BĐS. Thực tế là một số nhà đầu cơ BĐS tại các đô thị lớn đã đưa BĐS vào giao dịch, qua đó giải phóng nguồn vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư. Cơn sốt tăng giá BĐS xuất hiện từ cuối năm 2007 đến đầu năm 2008 bắt đầu được hạ nhiệt, nhất là đất đai, căn hộ chung cư cao cấp, văn phòng cho thuê…

Tuy nhiên, việc thực hiện kiềm chế lạm phát đang khiến nhiều dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng, công trình hỗn hợp bị thiếu vốn hoặc chưa huy động được vốn nên khó thực hiện đúng tiến độ, các dự án sắp triển khai cũng bị chậm lại… Từ đó ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu của thị trường BĐS và đây sẽ là yếu tố làm cho thị trường khó hạ nhiệt cơn sốt giá.

Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam nhấn mạnh: “Nếu chỉ tập trung vào việc thắt chặt nguồn tín dụng đổ vào thị trường BĐS có thể sẽ gây phản ứng ngược, làm ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu về BĐS. Lượng cầu vẫn tăng trong khi nguồn cung giảm sẽ tạo ra sức ép đẩy giá BĐS lên cao!”. Để tháo gỡ tình trạng này, một mặt trong khi sử dụng các công cụ tiền tệ để kiềm chế lạm phát, mặt khác vẫn cần những giải pháp cho các dự án vay để đầu tư phát triển BĐS thiết yếu cho dân sinh và phát triển kinh tế, đảm bảo đủ hàng hoá cho thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ, đẩy mạnh công khai quy hoạch phát triển đô thị và các dự án kêu gọi đầu tư. Quy định rõ thời gian, địa điểm công khai quy hoạch, dự án để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư bình đẳng và dễ dàng tiếp cận các dự án phát triển BĐS, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm tăng nguồn cung cho thị trường BĐS.

Về việc thực hiện các dự án, các chuyên gia cho rằng cần cho phép nhà đầu tư được huy động vốn khi đã hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng, hoặc đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng đất, với lý giải: “Chúng ta đều biết, khi nhà đầu tư đã hoàn thành giải phóng mặt bằng thì về mặt pháp lý, họ đã được Nhà nước giao đất, đã bỏ tiền để bồi thường giải phóng mặt bằng, sau này được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước. Nhà đầu tư đã có quyền sử dụng đất tức là có tài sản, do đó họ được huy động vốn để đầu tư làm tăng giá trị tài sản của họ. Trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, khi đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng đất thực hiện dự án thì thực tế đất đai đã là tài sản của họ. Do đó họ được quyền huy động vốn thực hiện dự án.

5. Xuất - nhập khẩu

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kim ngạch XK của cả nước tháng 4/2008 ước đạt 5,1 tỉ USD, tăng 5,6% so với tháng 3/2008, đưa tổng kim ngạch XK 4 tháng đầu năm nay đạt 18,26 tỉ USD, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2007 (cùng kỳ đạt 14,3 tỉ USD) và bằng 30,8% kế hoạch năm. Đáng chú ý là một số mặt hàng XK trong tháng 4 có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của tháng 3, đó là: hàng dệt may tăng 24,5%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện tăng 33,8%; dây điện và dây cáp điện tăng 34,2;... Có thể nói, với nhiều khó khăn đối với hoạt động XK trong thời gian qua, nhất là khó khăn về đồng USD mất giá liên tục trong tháng 3, kim ngạch XK của tháng 4 đạt 5,1 tỉ USD là một nỗ lực lớn của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng thể hiện sự thành công trong việc điều hành, tháo gỡ khó khăn của các cơ quan quản lý, nhất là sự can thiệp của Chính phủ trong việc chỉ đạo các ngân hàng áp dụng linh hoạt chính sách tiền tệ đối với các doanh nghiệp sản xuất và XK. Các biện pháp này đã được thực hiện tích cực ngay trong cuối tháng 3 và tháng 4 nên hoạt động của doanh nghiệp không bị đình trệ mà còn có sự bứt phá khá ngoạn mục.

Tuy nhiên, có một thực tế đặt ra: yếu tố tăng giá này lại do khách quan đem lại từ sự tăng giá trên thị trường thế giới chứ chưa phải do nội từ giá trị gia tăng của hàng hóa XK của Việt Nam. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng này xem ra chưa có gì ổn định, vững chắc. Hơn nữa, nhập siêu vẫn tiếp tục tăng mặnh. Trong 4 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đã gấp 3,9 lần cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu tăng cao do nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố giá tăng (như với các mặt hàng sắt thép, xăng dầu, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, phân bón… ). Nguyên nhân thứ hai vẫn thường được nhắc đến là nhập siêu tăng còn do chúng ta tiếp tục tăng đầu tư cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế, trong đó tăng nhập khẩu cho đầu tư xây dựng, máy móc phụ tùng, nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu... Thứ 3, do nhu cầu nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước tăng. Lộ trình giảm thuế cũng khiến lượng hàng hóa nhập vào Việt Nam nhiều hơn, như lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc tăng đến 6 lần, linh kiện lắp ráp tăng 4 lần... Một điều đáng lưu ý là tiêu dùng của người Việt Nam đã tăng nhanh hơn đáng kể so với tốc độ tăng GDP trong vài năm gần đây. Bằng chứng là tỷ lệ tiết kiệm trong nước trên GDP chỉ tăng từ hơn 27% năm 2000 lên 31% trong các năm 2006 và 2007. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, “tăng tiêu dùng, nhất là từ nguồn nhập khẩu, sẽ làm đảo lộn cán cân thanh toán vĩ mô. Đây là điều đáng lo ngại”. Và mức thâm hụt thương mại lên đến 17% GDP, mà một phần không nhỏ ở đó được đóng góp bởi hàng tiêu dùng xa xỉ nhập khẩu cho tầng lớp trung lưu đang trở thành một nguy cơ lớn đối với nền kinh tế Việt Nam

6. Giá lúa gạo và an ninh lương thực

Một trong những vấn đề kinh tế được bàn đến nhiều nhất trong tháng tư chính là giá lúa gạo và an ninh lương thực.

Theo dự báo của Ban Nghiên cứu kinh tế, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, thương mại lúa gạo toàn cầu sẽ tăng 2,4%/ năm từ 2007 đến 2016, trong khi sản lượng chưa thể tăng tương ứng. Cũng trong giai đoạn 2007 – 2017, các nước sản xuất gạo ở châu Á - Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ - tiếp tục là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chính của thế giới. Riêng xuất khẩu gạo của hai nước Thái Lan và Việt Nam sẽ chiếm khoảng nửa tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới. Vậy, cơ hội lớn đối với hạt gạo như vậy đã có ảnh hưởng ra sao tới Việt Nam?

Theo VFA (Hiệp hội lương thực Việt Nam), từ đầu năm tới nay, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh đạt mức giá trung bình 530 USD/tấn trong khi năm 2007, giá gạo xuất khẩu chỉ đạt 309 USD/tấn. Tính đến hết tháng 3/2008, các doanh nghiệp đã xuất khẩu khoảng 800.000 tấn gạo, thu về khoảng 310 triệu USD, chỉ tăng 20% về lượng nhưng tăng tới 61% về giá trị. Tuy nhiên, ngày 2/4, VFA đã yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chưa ký hợp đồng mới cho đến tháng 6/2008 nhằm bảo đảm an ninh lương thực cũng như ổn định giá cả các mặt hàng này trong nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Việc hạn chế ký hợp đồng xuất khẩu gạo mới đã làm giá gạo nguyên liệu giảm nhanh, khiến người trồng lúa giảm lợi nhuận đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của người nông dân trong khi doanh nghiệp xuất khẩu gạo lại là người được lợi. Bên cạnh đó, những thông tin về tình hình lương thực thế giới khan hiếm đã nhanh chóng được một số tư thương nắm lấy như một cơ hội kiếm tiền hiệu quả, và được đẩy lên thành một cơn sốt ảo khiến nhiều người dân trên đất nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo phải hoang mang về an ninh lương thực trong nước.

Cơn sốt gạo ảo đã nhanh chóng được đẩy lùi, song bài học rút ra từ kinh nghiệm này rất đáng để các cơ quan chức năng, doanh nghiệp, và người dân suy xét.

Thứ nhất, một điều đã được khẳng định là gạo dự trữ của VN là không thiếu, cái thiếu là một “nhạc trưởng” có khả năng điều hành thị trường một cách linh hoạt và hợp lý. Theo ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hội Siêu thị TP Hà Nội phân tích, "nhạc trưởng" trong trường hợp này chính là Vụ chính sách thị trường trong nước - Bộ Công Thương, chính quyền các địa phương và cả Hiệp hội Lương thực. Có 3 nguyên tắc để đảm bảo thị trường vận hành ổn định: thứ nhất là lượng hàng dự trữ phải đảm bảo, thứ hai là phải có hàng tung ra đúng thời điểm và thứ ba là phải thu mua tận gốc. Cả ba điều này, chúng ta đều làm chưa tốt nên thị trường đã xảy ra cơn sốt giả khiến những người đầu cơ hưởng lợi trong khi cả người bán và người mua đều thiệt. Ông Phú nhận định, kể cả chúng ta có hàng ngàn tấn gạo để tung ra ổn định thị trường song ai tung ra và tung thế nào thì lại cần vai trò của người "nhạc trưởng". Đã đến lúc, cần có một sàn gạo, sàn tôm, sàn nông sản... để hàng hóa từ nơi sản xuất đến được tận tay các nhà buôn chân chính, tạo ra một sân chơi lành mạnh, khiến một số cá nhân không còn cơ hội "làm giá" và thao túng thị trường như hiện tại.

Thứ hai là vấn đề thông tin và tiếp cận thông tin. Nguyên nhân của cơn sốt gạo vừa qua chủ yếu là do tâm lý xuất phát từ việc giá gạo thế giới tăng và lương thực thế giới có vấn đề. Đây là điều có thật và các nhà lãnh đạo thế giới cũng đã đăng đàn bàn về vấn đề này. Vấn đề ở đây chính là cách đưa tin của các cơ quan truyền thông cũng như tiếp nhận thông tin của người dân. Báo chí chỉ đưa thông tin thế giới một cách đơn thuần, thậm chí một số báo cũng đưa thông tin không chính xác và đầy đủ, làm người dân trong nước hiểu sai về tình hình lương thực của Việt Nam. Từ đó dẫn đến việc ai cũng muốn có lợi nên xảy ra những hành động tuy nhỏ nhưng xâu chuỗi lại thì sẽ có tác động đến nguồn cung gạo trên thị trường. Vì vậy, bài học cho cả người dân, cơ quan chức năng và các doanh nghiệp là phải học cách xử lý thông tin bởi biến động giá hoàn toàn có thể xảy ra ở tất cả các mặt hàng chứ không chỉ riêng gạo

Mặt khác, để nông dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được cơ hội tăng năng suất và thu nhập nhờ giá gạo xuất khẩu cao như hiện nay, đồng thời để Việt Nam phát huy vai trò là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới, góp phần giải quyết vấn đề an ninh lương thực toàn cầu, các chuyên gia cũng đã đưa ra một số khuyến nghị.

Một là, dù là nước có sản lượng lương thực hơn 36 triệu tấn/năm nhưng đến nay, chúng ta chưa có hệ thống kho chứa lương thực hiện đại. Trong bối cảnh thị trường gạo thế giới đang có nhiều bất ổn, để bảo đảm an ninh lương thực, các doanh nghiệp tạm thời ngưng xuất khẩu gạo được coi là việc làm cần thiết. Nhưng thực tế hiện cả vùng đồng bằng sông Cửu Long có sản lượng lương thực gần 19 triệu tấn/năm mới chỉ có một hệ thống silo công suất 30.000 tấn được xây dựng từ trước năm 1975. Nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn phải bán đổ, bán tháo lúa gạo mỗi vụ thu hoạch vì không thể tích trữ chờ thời điểm giá thị trường có lợi nhất. Ðiều đó cho thấy vai trò chủ động của các địa phương trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Đã đến lúc các nhà quản lý cần quan tâm thích đáng đến việc này, thực hiện xã hội hóa, tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn xây dựng hệ thống silo vì lợi ích chung của đất nước và đời sống của người nông dân Việt Nam.

Hai là, cần cải tổ cơ chế sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay theo hướng thương mại tự do để nắn lại các dòng chảy lợi ích về đúng địa chỉ, hướng tới những người xứng đáng được hưởng là nông dân trực tiếp sản xuất ra lúa gạo và lợi ích quốc gia. Hiện ở Việt Nam, việc tư nhân tham gia vào hoạt động xuất khẩu gạo còn đang rất hiếm và khó khăn. Có ý kiến cho rằng cơ chế xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay còn rất sơ khai so với hoạt động thượng mại tự do, mọi biện pháp hành chính can thiệp đều có thể được áp dụng để dẫn tới kết cục là nông dân có thể bị lỗ còn nhà xuất khẩu (trong đó hầu hết là các tổng công ty của nhà nước) sẽ không bao giờ chịu lỗ.

Ba là, đồng hành với dự báo về một luồng vốn FDI lớn tiếp tục đổ vào Việt Nam là lo ngại trước vấn đề sử dụng quỹ đất nông nghiệp cho mục đích phát triển KCN - KCX, khu công nghệ cao.

Mặc dù Bộ NN-PTNT đề xuất với Chính phủ việc phải bảo vệ đất nông nghiệp, kiên quyết giữ bằng được diện tích đất trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực lâu dài. Quốc hội cũng có ý kiến, phải giữ 3,8 triệu ha đất trồng lúa, kiên quyết không cho KCN vào những vùng đất này. Theo đó, phát triển KCN tập trung phải đưa vào vùng đất xa, đất xấu và vùng sâu, tránh lấy vào đất tốt. Song việc "bê tông hóa" lớp đất "có cấu tượng" bằng phong trào phát triển KCN - KCX, khu công nghệ cao... đã diễn ra với tốc độ chóng mặt. Số liệu do Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam đưa ra vào năm 2007 cho thấy, diện tích đất canh tác của Việt Nam hiện thấp nhất thế giới, bình quân khoảng 0,12 ha/người. Các chuyên gia nhận định đây chính là hậu quả của phong trào thu hút FDI của các địa phương trong khi chưa có sự chuẩn bị chu đáo, chưa có quy hoạch cụ thể dẫn đến việc các địa phương ra sức "chiều" DN, DN muốn vào chỗ nào là được chỗ đó, nhiều khi dẫn đến tình trạng đăng ký địa điểm đầu tư hết sức phi lý. Thêm vào đó, chất thải của khu công nghiệp làm ô nhiễm nguồn nước, không khí, còn dẫn đến ảnh hưởng lớn là không có nông nghiệp sạch.

Mặc dù có ý kiến đều cho rằng, với tốc độ giảm diện tích đất lúa như thời gian qua cùng với tốc độ tăng dân số như hiện nay thì đến năm 2020, vấn đề an ninh lương thực vẫn được đảm bảo, song các chuyên gia khẳng định, sự chuyển đổi đất nông nghiệp thành phi nông nghiệp là quá trình một chiều, không quay trở lại được. Thực tế này yêu cầu chúng ta cần phải nhìn xa hơn, phải thực hiện triệt để các chính sách nhằm đảm bảo tăng trưởng và an ninh lương thực bền vững cho cả những thế hệ sau.

Nguồn: VNEP, tháng 04/2008

Các bài báo tham khảo.

1. “Mở cửa” cho thị trường Bất động sản- 29/04/2008 – Báo Công Thương, Hòai Giang.

2. 8 nguyên nhân tiền không về Ngân hàng – 22/04/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Nguyễn Hà.

3. Kiềm chế lạm phát có làm thị trường BĐS thêm nóng – 16/04/2008 – Báo Vietnamnet, Hải Châu

4. 5 kế hoạch trọng tâm ổn định thị trường Chứng khoán – 29/04/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Duy Cường

5. Thị trường cùng hướng với thông tin hỗ trợ - 39/04/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Hoàng Đạt

6. Gửi và vay tiền đều đang thiệt – 16/04/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Nguyễn Hoài

7. Giảm chỉ tiêu tăng trưởng xuống 7% - 23/04/2008 – Thời báo kinh tế Việt Nam, Nguyên Linh

8. Tổng cục thống kê

9. Kho chứa... chưa có! – nhân dân 24/4/2008 – Băng Châu

10. Gạo tăng giá đột biến: “Nhạc trưởng” thiếu, dự trữ yếu – Diễn đàn doanh nghiệp, 28/04/2008 Hoàng Lan

11. "Sốt" gạo: Nhìn lại nguyên nhân thông tin – TB KTVN, 30/04/2008 - Từ Nguyên

12. Lời giải mới cho thu hút đầu tư – DDDN, 14/04/2008 – Gia Linh

13. Nông dân lại thiệt thòi – Đại Đoàn Kết, 24/4/2008 – Hữu Nguyên

14. Nhập siêu tiếp tục tăng – TB KT VN, 28/4/2008 - Dương Ngọc

15. Lo vì người Việt xài sang – TB KTVN, 24/8/2008 – Gia Linh.