
Tin tức
Ngăn ngừa hội chứng “thiếu máu” (29/05)
06/08/2010 - 46 Lượt xem
Lãi suất cơ bản phải theo mức lạm phát cơ bản
Xét cho cùng, việc này cũng hợp lý vì lãi suất cơ bản đã ổn định trong một thời gian dài so với tình hình giá cả hiện nay, cần phải điều chỉnh lãi suất cơ bản lại phù hợp.
Theo tính toán, những NH nào huy động lãi suất 14%/năm được xem là điểm hòa vốn. Nếu huy động trên mức này thì lợi nhuận sẽ giảm dần, thậm chí là lỗ; ngược lại huy động dưới mức này thì NH sẽ có lợi nhuận cao.
Tuy nhiên, các NH nhỏ sẽ có chi phí đầu vào rất cao do dựa chủ yếu vào nguồn tiền tiết kiệm (thường là 14-15%/năm), trong khi những NH lớn bên cạnh việc huy động vốn từ dân cư họ còn có tiền gửi thanh toán của các DN nên bình quân giá vốn đầu vào của các NH lớn chỉ vào khoảng 10-11%/năm.
Vì vậy hoạt động tín dụng sẽ có sự phân tầng. Các ngân hàng lớn cho vay với lãi suất 17-18%/năm là đã lời rồi, trong khi các NH nhỏ phải cho vay trên 18%/năm, thậm chí phải thu thêm các khoản phí khác. Cơ chế điều hành lãi suất này đã tạo sự cạnh tranh trong phạm vi pháp luật quy định, các NH nhỏ sẽ gặp những khó khăn nhất định, buộc họ phải hoàn thiện để phát triển tương thích với thị trường.
Có ý kiến cho rằng lãi suất cơ bản hiện nay cao nhưng cũng nhiều ý kiến cho rằng vẫn còn thấp. Theo tôi, ở đây cần có sự chia sẻ giữa người gửi tiền với người vay và các tổ chức trung gian tài chính. Hiện nay nhiều nước trên thế giới điều hành lãi suất cơ bản theo lạm phát mục tiêu.
Lạm phát mục tiêu được tính toán dựa trên cơ sở lạm phát cơ bản. Cụ thể, có nước tính lạm phát cơ bản là lấy CPI trừ đi lương thực thực phẩm và năng lượng. Chẳng hạn, lạm phát cơ bản của Hoa Kỳ hiện nay khoảng 2% và FED đã điều hành lãi suất cơ bản khoảng 2%.
Ở Thái Lan lạm phát cơ bản chỉ dao động từ 1,5 -2,5% nên lãi suất cơ bản cũng ở mức 3%. Nếu ở Việt Nam, bên cạnh chỉ số CPI có tính thêm chỉ số lạm phát cơ bản thì trước mắt loại trừ yếu tố lương thực thực phẩm thôi, chỉ số lạm phát cơ bản ở nước ta hiện nay sẽ dao động từ 11-12%.
Và nếu chỉ số lạm phát cơ bản của Việt Nam được xem là lạm phát mục tiêu thì việc điều hành sẽ dễ dàng và đó cũng là định hướng NHNN nên thực hiện. Hàng tháng NHNN phải linh hoạt xem xét dấu hiệu sức khỏe của thị trường, chỉ số CPI, khả năng huy động vốn của các NH, lãi suất liên NH và lãi suất thị trường mở… để có sự điều chỉnh phù hợp.
Giảm dự trữ bắt buộc, kiểm soát tín dụng
Với mặt bằng giá mới thì phương tiện tiền tệ làm chức năng thanh toán cũng cần sự tương thích. Nếu tiếp tục thắt chặt tiền tệ, tất yếu sẽ gây ra một số phản ứng phụ, nền kinh tế sẽ “thiếu máu”, tức thiếu tiền mặt bảo đảm lưu thông.
Thực tế cho thấy mặc dù lãi suất NH đã tăng cao, tiền vào là có nhưng tính tổng thể lượng tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế (trước đây chiếm khoảng 50% trong tổng huy động vốn) đang trong xu hướng giảm dần. Vì vậy, đã đến lúc cần giảm dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 9%, thậm chí xuống 8%.
Có thể giảm theo lộ trình, trước mắt xuống 9% sau đó xuống 8% để đảm bảo việc lưu thông tiền tệ, ổn định và phát triển kinh tế. Việc giảm dự trữ bắt buộc sẽ giảm chi phí cho các NHTM, từ đó NHTM mới có thể giảm lãi suất cho vay, trả lại tính linh hoạt cho thị trường tiền tệ.
Có quan điểm lo ngại trong điều kiện đang ưu tiên ổn định chỉ số giá cả thì giảm dự trữ bắt buộc sẽ làm tăng cung tiền đẩy lạm phát lên cao. Theo tôi không phải lúc nào tăng cung tiền cũng gây lạm phát, vì còn tùy thuộc lượng tiền đó được sử dụng như thế nào, có tạo ra hàng hóa dịch vụ tương ứng và cân đối hay không.
Để đảm bảo tăng trưởng GDP với mặt bằng giá mới thì đòi hỏi lượng tiền phải tăng tương thích. Vấn đề đặt ra là việc cho vay của các NHTM có thu hồi được vốn và sử dụng hiệu quả hay không. Cho nên mấu chốt trong thời điểm này không phải là thắt chặt tiền tệ mà là kiểm soát tín dụng. Làm sao cho đồng tiền “đi ra” hiệu quả, giúp nền kinh tế có đủ lượng “máu” lưu thông.
Hiện nay NHNN cùng lúc áp dụng song trùng 3 công cụ: lãi suất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc và hạn mức tăng trưởng tín dụng 30%/năm đang gây “ngộp” cho nền kinh tế. Với mức tăng trưởng tín dụng năm 2007 đã trên 55% thì trong năm nay cần xây dựng lộ trình giảm từ từ, không gây sốc đột ngột, bằng biện pháp một lần giảm từ 55% xuống 30%.
Đặc biệt, không nên đánh đồng các NHTM với nhau mà phải xét cụ thể từng ngân hàng về hệ số an toàn giữa vốn tự có trên tài sản có, khả năng huy động vốn cũng như khả năng quản trị điều hành của từng NHTM để có mức hợp lý cho mỗi NH, từ đó đảm bảo bình quân chung về hạn mức tăng trưởng toàn hệ thống khoảng 35-40% là vừa phải, chấp nhận được.
Nguồn: SGGP
