
Tin tức
Khu vực ngân hàng tài chính (02/06)
06/08/2010 - 53 Lượt xem
Sau cuộc khủng hoảng tín dụng cuối các năm 1980, các ngân hàng thương mại thật sự chỉ ra đời sau khi Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (Pháp lệnh Tín dụng) được ban hành ngày 23.5.1990. Hệ thống ngân hàng hai cấp bắt đầu có kể từ đó. Một số quỹ tín dụng đã được tổ chức lại thành các ngân hàng thương mại vào các năm 1991, 1992.
Ngân hàng Hàng Hải là ngân hàng mới đầu tiên được thành lập theo Pháp lệnh Tín dụng, sau đó là ACB, VPBank,... và tiếp sau là nhiều ngân hàng khác. Ngoài các ngân hàng cổ phần (ngân hàng tư nhân) còn có các ngân hàng thương mại quốc doanh như các ngân hàng Nông nghiệp, Công thương, Ngoại thương, Đầu tư. Họ chiếm vị thế chủ đạo. Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long được thành lập sau. Bảng sau cho chúng ta bức tranh về số các ngân hàng thương mại cổ phần đô thị hoạt động từ 1997 đến nay (5.2008). (Xem bảng)
1997 |
1998 |
1999 |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
5.2008 |
25 |
20 |
20 |
20 |
20 |
20 |
22 |
22 |
24 |
27 |
33 |
35 |
Có thể nói đầu năm 1997 đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng thương mại cổ phần. Nhiều ngân hàng đã bị giám sát đặc biệt và 5 ngân hàng thực tế đã ngừng hoạt động. Nhiều ngân hàng thương mại nông thôn được thành lập với số vốn nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp. Số ngân hàng thương mại đô thị hoạt động không tăng suốt 6 năm.
Năm 2003 có 1 ngân hàng nông thôn được nâng cấp thành ngân hàng đô thị và Ngân hàng cổ phần Hải Phòng ngừng hoạt động đã được mua lại và chuyển về Hà Nội; năm 2005 thêm 2 ngân hàng nông thôn được nâng cấp; 3 ngân hàng nông thôn được nâng cấp năm 2006; năm 2007 có thêm 5 ngân hàng nông thôn được nâng cấp và 1 ngân hàng được lập mới; đến 5.2008 có thêm 2 ngân hàng được lập mới (và 7 ngân hàng khác đã được phép về nguyên tắc và đang chờ được cấp phép).
Có thể thấy số ngân hàng đô thị tăng nhanh trong 3 năm qua chủ yếu là do nâng cấp (mà thực chất là các nhà đầu tư mua lại giấy phép đã có của) 12 ngân hàng và lập mới 3 ngân hàng. Thực sự đã có 15 ngân hàng mới, và quá trình này bắt đầu từ 2003 và đã hoàn tất trước khi có Thống đốc mới tháng 8.2007.
Tổng số vốn đăng ký của các ngân hàng này là 52.778 tỉ đồng (tăng khoảng 30 lần so với 10 năm trước). Tổng tài sản vào ngày 31.12.2007 của 8 ngân hàng mà chúng tôi lấy được số liệu trên trang web của họ (ACB, Sacombank. Eximbank, ViBank, VPBank, ABBank, Habubank) và Ngân hàng Quân đội (tài liệu đại hội cổ đông) là 304.225 tỉ đồng. Nhiều ngân hàng chưa công bố báo cáo tài chính năm 2007 trên mạng, nên chưa lấy được số liệu, song có thể ước lượng tổng tài sản của 35 ngân hàng cổ phần đô thị này cỡ trên 400 ngàn tỉ đồng (25 tỉ USD cỡ 35% GDP).
Có thể thấy sự phát triển của các ngân hàng cổ phần trong 10 năm qua là hết sức ngoạn mục, chúng đã đóng góp một phần đáng kể vào việc cung cấp vốn cho nền kinh tế, góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên vài năm qua chúng đã phát triển quá nhanh và kéo theo nhiều rủi ro tiềm ẩn. Các ngân hàng đã đua nhau tăng vốn, mở rộng mạng lưới, bành trướng tín dụng (năm 2007 tăng hơn 100% so với 2006), tăng nhân viên. Đáng báo động là số ngân hàng mới tăng nhanh (nếu 7 ngân hàng đang chờ được cấp phép thì tăng gấp 2 trong vòng 5 năm) và còn đáng lo ngại hơn là nhiều tập đoàn đua nhau bỏ vốn vào các ngân hàng mới này.
Do bành trướng về mạng lưới, về quy mô, về nhân sự đã đẩy chi phí nhân công của các ngân hàng lên khá cao, nhân lực chưa được đào tạo bài bản, thiếu kinh nghiệm, khả năng quản trị không theo kịp sự phát triển về quy mô, cạnh tranh gay gắt, nhiều ngân hàng đã cho vay chứng khoán và bất động sản góp phần tạo ra bong bóng, tăng tín dụng quá nhanh gây lạm phát.
Tất cả những việc này ẩn chứa những rủi ro không nhỏ. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ, kiềm chế tăng tín dụng để chống lạm phát là chính sách đúng đắn. Tuy vậy, nhiều biện pháp hành chính của Nhà nước (như chậm điều chỉnh lãi suất cơ bản và áp đặt trần lãi suất và chỉ huỷ bỏ khi hậu quả đã hiển hiện) đã làm cho các ngân hàng càng khó khăn hơn. Chắc chắn nợ xấu của các ngân hàng sẽ tăng đáng kể trong thời gian tới.
Ngoài các ngân hàng, gần trăm công ty chứng khoán (Thái Lan chỉ có khoảng 40 công ty) với nghiệp vụ repo (giao dịch, mua lại có kỳ hạn) của mình cũng góp phần không nhỏ vào khó khăn vừa qua. Nghe nói còn cả trăm hồ sơ công ty chứng khoán chờ cấp giấy phép. Thật kinh hoàng!
Tình hình của các ngân hàng quốc doanh cũng không thật sáng sủa khi phải từ bỏ cả trăm ngàn tỉ đồng tiền gửi không kỳ hạn của ngân sách và bảo hiểm xã hội.
Việc nâng cấp, thành lập mới ồ ạt là một chủ trương sai. Nên cấm các tập đoàn bành trướng sang lĩnh vực này. Không nên cấp phép thêm cho các ngân hàng và công ty chứng khoán mới. Cần giám sát chặt chẽ hoạt động của chúng. Hệ thống tiềm ẩn nhiều rủi ro và Nhà nước nên chuẩn bị kỹ các phương án xử lý. Phải chăng chúng ta đang chứng kiến hiện tượng chu kỳ: 1988-1989; 1997-1998; 2008-?. Hãy cảnh giác!
Nguồn: Lao Động
