Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tháng 5 - 2008

06/08/2010 - 24 Lượt xem

1. Tăng trưởng và lạm phát

a) Tăng trưởng kinh tế

Theo công bố của Tổng cục thông kê trong tháng 05/2008 tình hình kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trong điều kiện còn nhiều khó khăn. Đối với sản xuất công nghiệp, tính chung 5 tháng qua, sản xuất công nghiệp vẫn có xu hướng tiến bộ, giữ được chiều hướng tăng so với cùng kỳ năm ngoái với mức tăng trưởng là 16,4%. Kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm đã có 8 nhóm hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép, gỗ, thủy sản, gạo và cà phê. Thu hút đầu tư nước ngoài cũng tiếp tục tăng cao. Trong 5 tháng, cả nước có khoảng 130 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 7.5 tỷ USD. Ngoài ra trong thời gian này còn có 132 lượt dự án tăng thêm vốn đầu tư với hơn 600 triệu USD. Theo cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch đầu tư, số vốn đăng ký đầu tư vào Việt Nam từ đầu năm tới nay đã lên tới 14,7 tỷ USD, tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm ngoái.

Song, sản xuất nông nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, việc tăng giá nguyên liệu đầu vào cũng khiến người nông dân rơi vào cảnh lao đao. Giá cả càng tăng mạnh hơn do thiếu hệ thống bán lẻ của các doanh nghiệp chủ đạo nên tư thương lợi dụng đầu cơ, ép giá. Đời sống người nông dân càng gặp nhiều khó khăn hơn khi tình hình thiên tai, dịch bệnh cũng diễn biến hết sức phức tạp. Tính đến ngày 20/5/2008, cả nước có 3 tỉnh là Cần Thơ, Trà Vinh, Long An có dịch cúm gia cầm chưa qua 21 ngày. Bệnh dịch tai xanh từng bước đã được kiểm soát nhưng vẫn còn 9 tỉnh là Lâm Đồng, Thừa Thiên - Huế, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Bình, Thái Nguyên, Nam Định và Ninh Bình có dịch chưa qua 21 ngày.

Mức nhập siêu 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, chiếm 61,6% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô là 2,5 tỷ USD, chiếm 17,6% tổng kim ngạch nhập siêu; nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 11,9 tỷ USD, chiếm 82,4%. Bên cạnh yếu tố về tăng số lượng hàng nhập khẩu, thì sự tăng giá của một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong thời gian gần đây cũng góp phần không nhỏ gây nên tình trạng nhập siêu.

Tại phiên họp thứ 3 Quốc hội khóa XII, Chính phủ đã chính thức đề nghị giảm chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8.5% xuống còn 7%. Chính phủ thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong những tháng tiếp theo của năm 2008 là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Với ý thức rằng đây là yêu cầu nhiệm vụ rất khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và sự đồng tâm hiệp lực của toàn dân, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng cả năm 2008 ở mức khoảng 7%; tích cực phấn đấu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng các giải pháp tổng hợp đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần.

Chính phủ đã xác định 8 nhóm giải pháp chủ yếu cần tập trung sức chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt trong thời gian tới. Phát biểu trước Quốc hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh 4 nội dung: Thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả; Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy mạnh phát triển sản xuất, dịch vụ và thu hút đầu tư; Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu; bảo đảm cân đối cung cầu hàng hoá; tăng cường quản lý thị trường, giá cả; chống đầu cơ, buôn lậu; Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng xác định cần tiếp tục tạo lập các cơ sở, các tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững trong những năm sau. Trong đó cần kiên trì triển khai thực hiện có hiệu quả 9 nhóm công việc:

Thứ nhất, khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật, hình thành nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là thủ tục hành chính, tạo ra chuẩn mực mới cho nền hành chính quốc gia.

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch; chuyển mạnh việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo hướng coi trọng hơn nữa các chỉ tiêu chất lượng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững.

Thứ ba, đẩy nhanh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu, nhất là những công trình giao thông quan trọng ở những vùng có dung lượng hàng hoá lớn, có tính kết nối vận tải cao nhằm giải tỏa ách tắc, tăng khả năng lưu thông hàng hoá, tiết kiệm chi phí vận tải, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.

Thứ tư, chú trọng phát triển nhanh nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng để thu hút mạnh các dự án đầu tư có trình độ công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thúc đẩy chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng xuất khẩu.

Thứ năm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá; sơ kết hoạt động của các tập đoàn kinh tế và làm rõ hơn vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.

Thứ sáu, đồng thời với việc chuẩn bị Đề án trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cần khẩn trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng để giảm thiểu tối đa những hiểm họa có thể xảy ra, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân.

Thứ bảy, tiếp tục hoàn thiện chính sách và mở rộng mạng lưới an sinh xã hội nhằm hỗ trợ thiết thực những đối tượng dễ bị tổn thương trong quá trình phát triển, nhất là những người làm công ăn lương; thực hiện giảm nghèo bền vững, bảo đảm cho người nghèo được thụ hưởng hợp lý thành quả của sự tăng trưởng.

Thứ tám, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thứ chín, tăng cường công tác đối ngoại và quốc phòng, an ninh; giữ vững chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của đất nước.

b) Tình hình lạm phát

Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 5 tăng đến 3,91% so với tháng trước, cao nhất so với các tháng từ đầu năm đến nay, đưa tốc độ tăng giá sau 5 tháng (tháng 5/2008 so với tháng 12/2007) lên đến 15,96%.

Mức lạm phát này cao hơn mức lạm phát của cả năm 2007 (12,63%) và cao hơn mức cả năm của 15 năm qua (tính từ năm 1993). Trong tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư, thì nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có tốc độ tăng giá cao nhất - 5 tháng đã tăng tới 26,56%, riêng giá lương thực tăng vọt lên 52,88%. Giá lương thực tăng quá cao chủ yếu do giá thế giới tăng cao hơn trong nước, đặc biệt với tin đồn đã làm giá gạo tăng cực mạnh trong thời gian qua, sau đó đã giảm xuống, nhưng vẫn cao hơn giá trước khi tăng. Giá thực phẩm tăng cao (5 tháng tăng 18,23%) chủ yếu do một số người dân chăn nuôi ít, mức sản xuất thực phẩm chăn nuôi bình quân đầu người thấp, nay lại thêm dịch bệnh gia súc, gia cầm gây thiệt hại lớn. Giá ăn uống ngoài gia đình tăng cao (5 tháng tăng 19,5%) do giá lương thực, thực phẩm tăng, do chi phí vận chuyển tăng, do người kinh doanh cũng đẩy thêm theo kiểu nước lên thuyền lên. Giá cả nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao không chỉ làm cho giá tiêu dùng chung tăng cao, mà còn làm cho người có thu nhập thấp gặp khó khăn hơn, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo.

Ngoài nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng cao chủ yếu do giá vật liệu xây dựng, nhất là xi măng, sắt thép - những vật liệu xây dựng chủ yếu - thay nhau tăng, góp phần làm cho tiến độ thi công các công trình bị chậm và giá xây dựng lên cao. Giá đất mặc dù đã giảm nhưng giá bất động sản vẫn còn cao đối với người thuê nhà, muốn cải thiện về nhà cửa. Giá nhóm phương tiện đi lại - bưu điện 5 tháng tính chung tăng 10,20%, song do giá bưu chính viễn thông giảm mạnh (giảm 9,21%) kéo xuống, như vậy là giá phương tiện đi lại tăng rất cao, chủ yếu do giá xăng dầu tăng trong hai đợt trước đã chuyển vào chi phí đi lại.

Chỉ số giá tiêu dùng tăng cao đã gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của người dân, đặc biệt là bộ phận người có thu nhập thâp, người ở nông thôn và vùng sâu vùng xa.

Theo ý kiến của các chuyên gia, tình hình lạm phát ra tăng trong 5 tháng đầu năm là do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, do yếu tố tiền tệ, tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2007 lên tới 53,8%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng dư nợ huy động, cao gấp 6,3 lần tốc độ tăng GDP. Năm tháng đầu năm nay, dư nợ cho vay tăng 18%, bằng 60% hạn mức của cả năm và cao gấp 4 lần tốc độ tăng dư nợ huy động (4,3 - 4,4%). Nguyên nhân chủ yếu do lãi suất huy động trong một thời gian dài bị thực âm, mãi đến 19.5 mới được tăng lên, nhưng nếu tính cho 5 tháng qua cũng như tính chung cho cả năm thì vẫn bị thực âm, có chăng nếu những tháng tới giá tiêu dùng tăng thấp thì lãi suất có thể tiến đến thực dương. Thứ hai, do yếu tố chi phí đẩy vẫn tạo áp lực lạm phát, nhất là chi phí về vốn, về thuê bất động sản, về nguyên nhiên vật liệu,... Thứ ba, do yếu tố cầu kéo vẫn tác động mạnh, khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng tăng tới gần 30% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng 10,1%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng GDP (tính theo giá so sánh). Thứ tư, "Nhập khẩu lạm phát" vẫn lớn do giá nhập khẩu tính bằng USD tăng, do tỷ giá VND/các đồng tiền khác tăng mạnh, ngay cả tỷ giá VND/USD gần đây cũng tăng mạnh trở lại (nhập siêu 5 tháng cũng đã lên đến trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007).

Ngoài bốn yếu tố trên, còn có một lượng tiền không nhỏ từ thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản do giá trên các thị trường này bị sút giảm đã chuyển sang thị trường hàng hóa, dịch vụ tạo sức ép tăng giá tiêu dùng. Theo TS. Nguyễn Đức Kiên, Ủy viên Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, tình hình lạm phát trong tháng 05 tăng lên quá cao còn do bởi sự biến động về giá cả trên thế giới đặc biệt là giá dầu, và yếu tố tâm lý trong nước khi có một bộ phận người làm công tác phân phối ở khâu cuối cùng lợi dụng tình hình để gom hàng, đẩy giá vật liệu và các nhu yếu phẩm lên cao. Để hạn chế lạm phát, Chính Phủ đã chỉ đạo “không để rối loạn trên thị trường”. Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, Chính phủ đang ưu tiên mục tiêu chống lạm phát, nên chưa thể để cho giá cả chạy theo thị trường trong một giai đoạn nhất định. Trong các nỗ lực để hạn chế mức tăng của chỉ số tiêu dùng, Chính phủ chủ trương vẫn tiếp tục bù lỗ giá xăng dầu, không để giá dầu trong nước lên sát với giá dầu thế giới. Nếu để điều này xảy ra sẽ làm cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ … buộc phải chạy theo giá xăng dầu. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đã có kiến nghị trình Chính phủ lùi tiếp thời điểm tăng giá đối với các mặt hàng thiết yếu như điện, nước, vé xe bus, vé máy bay… thêm một thời gian nữa, thay cho thời điểm dự kiến sau tháng 6. Theo Bộ Tài chính, việc giữ ổn định giá bán các mặt hàng thiết yếu là cần thiết, để kiềm chế lạm phát được cảnh báo là có khả năng tăng cao trong những tháng còn lại của năm.

2. Hoạt động ngân hàng

Tình trạng thiếu vốn đang tiếp tục diễn ra tại các ngân hàng. Theo nhận định của các chuyên gia, tình trạng khan hiếm vốn của các ngân hàng là do người gửi ở khu vực dân cư hầu như bão hoà. Trong hoàn cảnh lạm phát tăng cao, người dân phải tăng chi tiêu và giảm tiền gửi Ngân hàng. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ đã dùng tiền nhàn rỗi đầu tư vào các lĩnh vực khá mang lại lợi nhuận cao hơn khi gửi vào ngân hàng. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng giảm do chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng dự trữ bắt buộc (tăng từ 9% - 11%). Nhiều DN không vay được tiền, phải sử dụng hết tài khoản của mình. Điều này đã dẫn đến tình trạng thiếu tiền của toàn bộ nền kinh tế, làm ảnh hưởng đến phương tiện lưu thông và thanh toán, nhất là tiền cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.

Một vấn đề cấp thiết với hệ thống Ngân hàng Thương mại hiện nay đó là: khả năng thanh khoản. Nhiều nhà kinh tế đã tỏ ra lo lắng về khả năng thanh khoản hiện thời của hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo tính thanh khoản của các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước vừa yêu cầu các ngân hàng thương mại cần chủ động cân đối nguồn vốn, tích cực tham gia nghiệp vụ thị trường mở tại Ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động vốn khác để đảm bảo khả năng thanh khoản. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong trường hợp ngân hàng thực sự khó khăn về vốn khả dụng nhưng không có đủ giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn tham gia nghiệp vụ thị trường mở hoặc tham gia nhưng không trúng thầu thì cần có văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét cho vay tái cấp vốn. Các ngân hàng không được sử dụng nguồn vốn vay tái cấp vốn để mở rộng tín dụng. Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các ngân hàng theo một trong hai hình thức: Cho vay đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá hoặc cho vay theo hồ sơ tín dụng.

Theo yêu cầu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hàng ngày, các ngân hàng thương mại báo cáo Ngân hàng Nhà nước về tình hình nguồn vốn, sử dụng vốn và khả năng thanh khoản của mình theo một số nội dung thuộc các chỉ tiêu: Nguồn vốn; sử dụng vốn; số dư tiền gửi của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước; Dự trữ bắt buộc phải duy trì tại Ngân hàng Nhà nước; dự báo thừa, thiếu vốn khả dụng. Đồng thời, trường hợp có phát sinh vay, cho vay với tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng thương mại phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước tình hình cụ thể của từng món giao dịch đó theo các chỉ tiêu: Số tiền vay cho vay; lãi suất giao dịch; thời hạn. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nắm bắt kịp thời biến động về vốn khả dụng và giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay tái cấp vốn của các ngân hàng thương mại trên địa bàn, bảo đảm tiền vay tái cấp vốn được sử dụng đúng mục đích để bù đắp thiếu hụt thanh khoản.

Bên cạnh tình trạng thiếu vốn và vấn đề rủi ro trong thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Thời gian qua, chúng ta còn chứng kiến những diễn biến phức tạp về lãi suất và tỷ giá hối đoái của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

a) Lãi suất

Ngày 17/05/2008 Ngân hàng Nhà nước đã chính thức công bố những điều chỉnh mới trong chính sách điều hành lãi suất trong thời gian tới. Theo đó, bỏ cơ chế trần lãi suất huy động VND . Lãi suất của các ngân hàng được ấn định tối đa 18%/năm. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chính thức sử dụng các công cụ sẵn có để điều tiết lãi suất trên thị trường, thay vì “mệnh lệnh hành chính” trong thời gian qua.

Cụ thể, theo Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN công bố sáng ngày 17/05/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng án định lãi suất kinh doanh. Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam (VND) đối với khác hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Định kỳ hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời loại lãi suất này. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh lãi suất cơ bản, áp dụng từ ngày 19/05/2008, tăng từ 8,75%/năm lên 12%/năm. Theo đó, từ ngày 19/05/2008, tất cả các hợp đồng tín dụng có lãi suất trên 18%/năm là phạm luật.

Với cơ chế mới, các tổ chức tín dụng sẽ được chủ động điều chỉnh lãi suất huy động, thay cho việc cố định ở trần 12%/năm như trước đó. Cơ chế mới cũng hé mở khả năng thực hiện được định hướng lãi suất thực dương, tạo thuận lợi để các ngân hàng tăng cường khả năng huy động thay vì phải chịu lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng hiện nay. Và tất nhiên, các nhu cầu vay vốn sẽ được giảm bớt gánh nặng chi phí, giới hạn 18%/năm thay vì có thể lên tới 20% thâm chí cao hơn trước đó. Cùng với quyết định tăng lãi suất cơ bản, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm (mức gần nhất là 9%/năm) và lãi suất chiết khấu lên 11%/năm.

Theo Ngân hàng Nhà nước, hai loại lãi suất trên tạo nên hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu (chênh lệch 2%) có tác dụng góp phần điều tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng; trong đó, lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở sẽ dao động trong hành lang này. Khi điều kiện thị trường tiền tệ thay đổi, Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét điều chỉnh theo mức độ phù hợp.

Ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố những điều chỉnh mới trong chính sách điều hành lãi suất, các Ngân hàng Thương Mại đã đồng loạt tăng lãi suất huy động. Theo ý kiến của các chuyên gia, đây là một dấu hiệu tích cực khi mà lãi suất cơ bản sẽ được trả về đúng vị trí và vai trò của nó, như một chuẩn mực để các tổ chức tín dụng bám sát trong điều hành lãi suất của mình. Quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc gỡ bỏ trần lãi suất được coi là một bước tháo gỡ bế tắc cho các ngân hàng trong "cơn khát" vốn nhưng lại không thể tăng lãi suất huy động như hiện nay.

b) Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái trên thị trường cũng có những diễn bến hết sức phức tạp, đáng chú ý là tỷ giá giữa VND và USD. Cầu ngoại tệ căng thẳng, tỷ giá VND/USD trên thị trường tự do tăng đột biến. Nếu theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng, mức hiện tại vẫn thấp hơn nhiều so với những ngày đầu năm; 16.060 VND so với 16.100 VND. Nhưng nếu theo tỷ giá của các ngân hàng thương mại, mức hiện tại lại cao hơn so với những ngày đầu năm; 16.221 VND so với 16.000 VND (theo giá bán ra). Đầu năm, tỷ giá của các ngân hàng thương mại nối tiếp dòng “chảy ngược” cuối năm 2007, thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng (một diễn biến hiếm thấy trong lịch sử thị trường tiền tệ Việt Nam), do cung ngoại tệ dồi dào. Còn nay, cầu ngoại tệ căng, tỷ giá của các ngân hàng thương mại trở lại mạch vận động chính của nửa đầu năm 2007 trở về trước, cao hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Chính sự “đảo chiều” đó đã tạo nên vùng trũng chênh lệch lớn. Mặt khác, việc Ngân hàng Nhà nước liên tục nới rộng biên độ từ +/-0,25% lên +/-1% cũng tạo ra một cơ sở để có chênh lệch lớn đó.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, năm nay mức tăng giá hoặc mất giá VND được kiểm soát trong khoảng +/-2%. Tính toán của Tổng cục Thống kê vừa công bố cho thấy, trong tháng 5, giá USD tính theo VND đã tăng mạnh với 1,02% so với tháng trước đó (những năm gần đây, mức tăng giá USD trong mỗi tháng chỉ khoảng 0,1%), nhưng so với tháng 12/2007 chỉ tăng có 0,32%. Dữ liệu trên cũng phản ánh rõ mức độ mạnh của đợt biến động này trong ngắn hạn, cụ thể là trong tháng 5, nhưng là bình thường nếu xét cả quá trình 5 tháng đầu năm.

Với dữ liệu của Tổng cục Thống kê, giá USD vẫn còn dư địa để tăng tiếp, bởi chưa lấp đầy mức tăng 2% cho phép. Nhưng xét trong cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước, “room” 2% khó lấp đầy ngay trong ngắn hạn, nhất là sau khi đã có đà tăng mạnh trong tháng 5 này, bởi sẽ tạo biến động mạnh, ảnh hưởng ngoài mong muốn đến hoạt động tài chính, doanh nghiệp…

Còn trên thị trường tự do, theo nhận định của lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, sự đột biến hai ngày gần đây có yếu tố tâm lý và đầu cơ. Tỷ giá trên thị trường này không bị ràng buộc bởi các rào cản pháp lý như biên độ, “room” tăng giảm theo các kế hoạch thời gian. Nhưng dù “bay cao, bay xa”, gốc rễ của giá USD trên thị trường tự do vẫn là tỷ giá thực trên thị trường ngân hàng (do Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh).

Nguyên nhân đẩy tỉ giá, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước là do cầu ngoại tệ vẫn tiếp tục cao, chủ yếu do nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp để nhập khẩu, trong khi nguồn cung chưa được cải thiện, khiến cho cung cầu ngoại tệ tiếp tục mất cân đối. Xét cụ thể, sự mất cân đối đó xuất phát từ những tác động sau:

Thứ nhất, cầu ngoại tệ nhập khẩu tiếp tục tăng cao. Theo công bố của Tổng cục thống kê, mức nhập siêu 5 tháng đầu năm là 14,4 tỷ USD, chiếm 61,6% kim ngạch xuất khẩu, điều này tiếp tục gây lo ngại đối với nhà điều hành chính sách tỷ giá; đây là một áp lực làm giảm dữ trữ ngoại hối, vốn khó tích lũy. Trong cầu ngoại tệ tăng ở khối doanh nghiệp, ở con số nhập siêu 14,4 tỷ USD nói trên có một nguyên nhân khách quan và ảnh hưởng lớn. Đó là do đồng USD xuống giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt trong thời gian qua, giá các mặt hàng nguyên liệu, thiết bị… trên thế giới tăng lên để “cân đối”, tiêu biểu là giá dầu, khiến lượng ngoại tệ (USD) cần cho nhập khẩu 5 tháng đầu năm tăng mạnh.

Thứ hai, cầu ngoại tệ tăng và căng thẳng còn xuất phát từ chính hoạt động đầu tư của người dân thời gian gần đây. Sau khi bỏ lỡ cơ hội ở thời điểm cuối tháng 3 vừa qua, đồng USD được đưa vào tầm ngắm của nhiều nhà đầu tư, nhất là khi thị trường chứng khoán ảm đạm, thị trường vàng rủi ro và gửi tiết kiệm bị hạn chế bởi lạm phát…

Thứ ba, chính USD hấp dẫn đầu tư và bị đầu cơ trong đợt biến động này càng đẩy cầu ngoại tệ chính thống trở nên căng thẳng. Nhiều người dân không gửi ngoại tệ ở ngân hàng mà tham gia “trực chiến” trên thị trường tự do, kiếm lời. Tỷ giá trên thị trường tự do hấp dẫn cũng là một trở ngại các nguồn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân cư đến với ngân hàng.

Ngoài ra, tỷ giá của các ngân hàng thương mại vẫn thấp hơn nhiều so với thị trường tự do dẫn đến nhu cầu bán ngoại tệ của người dân bị chi phối. Hạn chế này dẫn đến trường hợp có ngân hàng phải mua USD vào giá thỏa thuận cao hơn niêm yết, khi năng lực cung của mình hạn chế.

Hệ lụy đáng chú ý là trong đợt biến động này, một lượng ngoại tệ lớn bị lôi kéo bởi tỷ giá cao trên thị trường tự do và nằm ngoài hệ thống ngân hàng, nằm ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một điều “kiêng kỵ” trong điều hành chính sách tiền tệ. Và vẫn là một hệ lụy thường thấy là các nhà nhập khẩu buộc phải điều chỉnh giá bán hàng hóa, nguyên liệu, thiết bị nhập về ra thị trường để cân đối theo tỷ giá; điểm đến cụ thể là người tiêu dùng.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết ngành ngân hàng đang thực thi chính sách tỷ giá với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng Việt Nam, đồng thời tạo thuận lợi cho xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tỷ giá, không để tăng giá hoặc mất giá quá mức đồng Việt Nam; tiếp tục mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước trên cơ sở nguồn tiền cung ứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp hút tiền về phù hợp với tình hình thị trường tiền tệ trong từng thời kỳ. Theo thông tin của Vụ trưởng Vụ quản lý Ngoại hối – Ngân hàng nhà nước cho biết “Ngân hàng Nhà nước đủ khả năng can thiệp để tỷ giá không có biến động lớn, gây xáo trộn hoạt động của các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp”.

3. Thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán (TTCK) đã giảm điểm nhiều phiên liên tiếp, Chỉ số VN - Index và HaSTC – Index xuống thấp kỷ lục và chưa có dấu hiệu dừng lại. “Thị trường vẫn đang tiếp tục trầm lắng”. Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, cả trong nước và ngoài nước. Ngoài nước thì tình hình kinh tế thế giới, lạm phát, đang có biến động rất thất thường. Giá cả hàng hóa chủ yếu của thế giới cũng ảnh hưởng, cho nên nó tác động tới các nhà đầu tư. Trong nước thì kinh tế đang tăng trưởng chậm lại, lạm phát thì cao. Chính phủ đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát là số một, cho nên ta phải áp dụng các biện pháp thắt chặt về tiền tệ, và thắt chặt về tài chính. Và vì vậy, tác động tới tăng trưởng, nó tác động trực tiếp làm TTCK trầm lắng. Tuy nhiên, còn có một nhân tố quan trọng đó là các nhà đầu tư của ta đang thiếu bình tĩnh, phân tích tình hình.

Thống kê cho thấy, trong các phiên giao dịch gần đây, giá trị khớp lệnh chỉ quanh quẩn 140 tỉ đồng/phiên. Ngày 20/52008, tổng giá trị khớp lệnh chỉ có 95,3 tỉ đồng, giảm 35% so với phiên trước, trong đó nhà đầu tư nước ngoài mua vào 28,6 tỉ đồng, tương đương 30%. Tính trung bình 10 phiên, giá trị mua vào của nguồn vốn ngoại cũng chiếm tới 49,8%. Rõ ràng tính thanh khoản của thị trường gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nhà đầu tư nước ngoài. Phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn ngoại vẫn được cho là rủi ro cho khả năng phục hồi chung của thị trường. Nhưng trong tình hình hiện nay, đó lại là động lực chính cho thị trường khi nguồn tiền mặt vốn đã cạn lại bị chia sẻ sang kênh đầu tư khác. Các công ty chứng khoán đều đã nhìn thấy rủi ro này, nhưng họ khó có thể đưa ra một chương trình nào để giữ chân nhà đầu tư.

Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự sụt giảm của thị trường , đó là sự biến động lãi suất của hệ thống ngân hàng. Phải thừa nhận rằng, lãi suất huy động thoát khỏi mức trần 12% được nhiều người coi là phao cứu nạn cho ngân hàng, song cũng là một cú "nốc ao" đối với thị trường chứng khoán. Nhiều người lo ngại nhà đầu tư rút vốn gửi vào các ngân hàng nhiều, khiến cho thị trường sụt mạnh và lâu hơn, đồng thời làm giảm tính thanh khoản. Thị trường niêm yết suy giảm, thị trường OTC cũng sẽ bị đóng băng, dẫn tới kế hoạch IPO của nhiều doanh nghiệp thất bại.

Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường rút gọn chỉ ở hai chữ cung và cầu. Thị trường chỉ phát triển khi cung và cầu phát triển cân bằng. Những biện pháp hành chính chỉ được áp dụng khi thị trường ở tình trạng mất kiểm soát, nếu không sẽ gây ra tình trạng méo mó thị trường. Đặc biệt, đối với thị trường vô cùng nhạy cảm là TTCK thì việc áp dụng các biện pháp hành chính càng cần phải linh hoạt. Khi có sự chênh lệch cung hoặc cầu, nếu tác động gián tiếp đến bên còn lại thì giá sẽ lập tức được điều chỉnh và thị trường sẽ phát triển ổn định, thu hút ngày càng nhiều người tham gia. Tuy nhiên, đối với TTCK Việt Nam, những sự tác động của “bàn tay vô hình” thời gian qua nhằm giảm chênh lệch cung - cầu, chưa hẳn đã tạo ra các kết quả như mong muốn để thị trường có thể phát triển bền vững.

Để TTCK phát triển ổn định tương đối, các giải pháp hợp lý có thể được đề xuất và áp dụng một cách linh hoạt.

Thứ nhất: Triển khai nghiệp vụ bán khống và các nghiệp vụ phái sinh đối với nhà đầu tư khi thị trường tăng nóng để ngày càng có nhiều người từ vị thế mua chuyển sang vị thế bán. Như vậy, thị trường sẽ tự điều chỉnh và thành công vẫn sẽ đến với những người có trình độ dù thị trường có đi lên hay đi xuống. Không có chuyện thị trường giảm thì các nhà đầu tư sẽ xa lánh thị trường, giao dịch ảm đạm, trong khi thị trường lên thì tranh nhau mua đẩy giá lên cao mãi.

Thứ hai: Nghiêm cấm các doanh nghiệp không chuyên về đầu tư tài chính tham gia lĩnh vực đầu tư tài chính. Trong một thị trường nhiều rủi ro như TTCK, trạng thái bong bóng và giảm giá có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Lúc thị trường lên, các Công ty công bố lợi nhuận cao ngất, đến lúc xuống thì lại giảm rất nhiều và sự sụp đổ sẽ diễn ra. Thêm vào đo, việc các Công ty không tập trung nguồn lực vào ngành nghề chính, phát hành cổ phiếu tràn lan đã làm tăng tình trạng bong bóng và giảm giá trị cũng như sự ổn định của doanh nghiệp.

Thứ ba: Nghiêm cấm các công ty con trong cùng một tập đoàn đầu tư chéo lẫn nhau. Do cùng một Công ty trong cùng một tập đoàn nên họ đẩy giá nhau lên rồi bán cổ phiếu của nhau, giảm tính minh bạch của thị trường.

Thứ tư: Ban hành những quy định nghiêm ngặt về công bố thông tin và chế tài xử lý nghiêm khắc với các DN vi phạm. Thời gian qua, nhiều Công ty phát hành cổ phiếu chui, thông tin nội gián tràn lan,... làm cho các cổ đông thiệt hại, khiến thị trường không minh bạch và được ví như canh bạc.

Thứ năm: Nhanh chóng cổ phần hóa HoSE và HaSTC để gắn quyền lợi của trung tâm với thị trường, nhà đầu tư. Có như vậy, những biện pháp mạnh mẽ mới được ban hành vì sự phát triển của thị trường. Thị trường mất đến 40% giá trị vốn hóa, khối lượng giao dịch còn một nửa sẽ khó có thể được coi là phát triển được.

Trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế, Chính phủ đang chủ trương chống lạm phát là ưu tiên số một hiện nay, tuy nhiên, thị trường chứng khoán cũng hết sức quan trọng. Chính phủ chủ trương là cố gắng giữ thị trường, để ổn định, từng bước phục hồi và phát triển". Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh, mặc dù là giá đang xuống, nhưng nhìn vào chỉ số P/E thì nó phản ánh rằng giá cổ phiếu hiện nay đang rất thấp, cho nên vẫn còn cơ hội mua vào, còn cơ hội phục hồi được. Bên cạnh đó, vừa rồi rất nhiều doanh nghiệp công bố thông tin, cho thấy tuy sản xuất kinh doanh có bị ảnh hưởng nhưng mà nó vẫn phát triển tốt. Những tín hiệu đó, nhìn về tổng thể, thì thị trường chứng khoán vẫn là một thị trường có khả năng tốt trong tương lai. Tuy nhiên các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong nước, nhiều khi bị hoang mang, dao động quá. Trong bối cảnh như thế lại ào ạt bán ra, cho nên nó tác động rất lớn đến thị trường như hiện nay. Về vĩ mô, nhìn tổng thể cũng tương đối là tốt, nhất là về dài hạn. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang nhận định như vậy- thể hiện thông qua thị trường là người ta vẫn đang mua vào. Nhìn chung cả giai đoạn thì phải đánh giá khối lượng mua vào của nó.

Để phục hồi và phát triển thị trường Chứng khoán, vừa qua Bộ Tài chính đã đưa 5 kế hoạch trọng tâm nhằm ổn định thị trường:

Một là, thực thi các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán có tổ chức đồng thời với việc hạn chế rủi ro của thị trường tự do. Nghiên cứu ban hành quy định về phát hành chứng khoán riêng lẻ.

Hai là, nghiên cứu để sửa đổi các quy định theo hướng nâng cao tiêu chuẩn đối với phát hành chào bán chứng khoán, cấp phép thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ.

Ba là, sửa đổi hoặc bổ sung các quy định liên quan đến nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán; quy chế hoạt động và cung cấp dịch vụ; thành lập công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài, các biện pháp kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài.

Bốn là, xây dựng đề án giải pháp, phòng ngừa rủi ro và xử lý khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Năm là, đổi mới cơ chế quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác; cơ chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam; tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ và đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty và doanh nghiệp Nhà nước để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh để báo cáo và đề xuất với Thủ tướng Chính phủ các biện pháp tăng cường quản lý và hướng dẫn hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế.

4. Xuất – nhập khẩu

Bức tranh xuất – nhập khẩu trong tháng 5 còn nhiều mảng sáng – tối đan xen, xuất khẩu hàng hoá của cả nước đạt 5,15 tỷ USD, mức cao nhất kể từ đầu năm đến nay, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2008 đạt khoảng 23,4 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo Bộ Công Thương, với đà tăng trưởng này, khả năng đạt mục tiêu xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD trong năm nay có thể thành hiện thực. Trong tổng kim ngạch 23,4 tỷ USD, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 13,5 tỷ USD, tăng 30,2%. Như vậy, tính đến nay, xuất khẩu bình quân mỗi tháng đã đạt mức kế hoạch đề ra cho cả năm là 4,9 tỷ USD/tháng. Với đà này, theo kinh nghiệm thời gian qua, triển vọng xuất khẩu trong những tháng tới có thể còn tăng trưởng mạnh.

Song, tuy tiếp tục giữ được nhịp độ tăng trưởng trong tháng 5 ở mức tăng so với cùng kỳ, cao hơn so với mức trung bình phải đạt là 22,6%, nhưng nhìn vào sự tăng trưởng của một số mặt hàng, đặc biệt là những mặt hàng có kim ngạch XK lớn cho thấy những dấu hiệu đáng lo ngại. Nếu tháng 4 có tới 14/19 mặt hàng đạt mức tăng trưởng từ 24% trở lên so với cùng kỳ thì trong tháng 5, con số này chỉ còn 5/19 giữ mức tăng trưởng này so với cùng kỳ. Đáng lo ngại hơn là không ít những mặt hàng, kể cả trong nhóm chủ lực chẳng những không giữ được mức tăng trưởng mà còn giảm về kim ngạch XK so với tháng 4 như: cà phê, sản phẩm gỗ, cao su, hàng thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng. Như vậy, sở dĩ có dự tăng trưởng XK trong tháng 5 ngoài yếu tố chủ động của doanh nghiệp, sự can thiệp của Chính phủ trong việc chỉ đạo các ngân hàng trong việc cho các doanh nghiệp sản xuất và XK vay vốn thì một phần rất lớn là nhờ vào sự tăng giá của một số mặt hàng như: gạo, dầu thô.

Thêm vào đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dù đã đạt rất cao, nhưng vẫn chưa "thấm tháp" vào đâu so với kim ngạch nhập khẩu liên tục tăng với tốc độ phi mã kể trừ đầu năm đến nay. Một số biện pháp giảm nhập siêu của Chính phủ như tăng thuế nhập khẩu ôtô, hạn chế cấp tín dụng cho vay nhập khẩu hàng tiêu dùng, kim ngạch nhập khẩu trong tháng 5 đã giảm 2,9% so với tháng 4/2008. Tuy nhiên, nhập siêu đã lên đến con số báo động 14,4 tỷ USD chỉ trong 5 tháng đầu năm nay, cao gấp ba số nhập siêu của cùng kỳ năm trước và bằng tổng nhập siêu trong năm 2007. Con số này đã phá vỡ mọi kỷ lục nhập siêu VN từng có, với mức trung bình gần 2,88 tỷ USD/tháng.

Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, với kịch bản nhập siêu những tháng tiếp theo chỉ là 1 tỷ USD/tháng, trong cả năm 2008, con số nhập siêu cũng sẽ vượt qua mức 21-23 tỷ USD. Trong khi đó, nguồn tiền có thể bù đắp cho nhập siêu trong cán cân thanh toán gồm kiều hối, FDI giải ngân, ODA, theo dự báo của một cán bộ ngân hàng nhà nước, chỉ ở mức 17 tỷ USD. Việc này đồng nghĩa với việc ngân sách sẽ thiếu hụt khoảng 6 tỷ USD trong năm nay. Nhập siêu đang là một trong những nguy cơ lớn nhất với nền kinh tế hiện nay. Yêu cầu xử lý vấn đề nhập siêu trở nên cấp bách.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định ba nhân tố dẫn đến nhập siêu tăng nhanh đó là: hội nhập kinh tế sâu hơn; trong quá trình phát triển, đầu tư nhiều, nhu cầu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhiều nên đương nhiên nhập khẩu tăng; và việc tăng tiêu dùng bất hợp lý của một bộ phận trong xã hội có xu hướng xài sang.

Khi hội nhập, cả nhập khẩu và xuất khẩu đều có xu hướng tăng lên. Vấn đề chính là VN chưa tận dụng tốt xu hướng tăng xuất khẩu, mà chịu sức ép quá lớn của xu hướng tăng nhập khẩu khi chưa có sự chuẩn bị tốt. Cách thiết thực nhất để chống chọi với sức ép nhập khẩu là có nền sản xuất trong nước mạnh, các ngành sản xuất trong nước có khả năng cạnh tranh.Với VN, dường như ta tập trung cao cho đàm phán, thay đổi thể chế luật pháp nhưng việc thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế ít được quan tâm.
Nhập khẩu nhiều phản ánh thực tế VN không đủ cung hoặc cung không đáp ứng được yêu cầu, do đó không cạnh tranh được với sản phẩm bên ngoài. Có thể thấy, chính sách và quy hoạch cụ thể cho phát triển công nghiệp có những điểm bất ổn. Trong chiến lược phát triển mới, cần có điều chỉnh, rút kinh nghiệm từ câu chuyện nhập siêu này.

Bên cạnh đó, lãng phí trong nhập khẩu còn nằm ở các công trình lớn của VN hầu hết ở mức hàng trăm triệu đô-la, tương đương với tổng giá trị của một loạt các sản phẩm tiêu dùng nhập về trong năm phục vụ cho hàng triệu người tiêu dùng. Một trong những “tội nhân” gây nhập khẩu lớn và lãng phí trong nhập khẩu là từ những công trình hàng trăm triệu đôla đó.

Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết sáu tháng cuối năm là thách thức rất lớn. Trong điều kiện này, cần có sự thích nghi. Nếu chúng ta áp dụng những biện pháp đã được định trước cho một thời kỳ kinh tế bình thường, thì ngày nay trước tình hình kinh tế khẩn trương như thế này, chúng ta phải điều chỉnh, áp dụng những biện pháp phù hợp.

Về lâu dài, Chính phủ cần xem xét những ai, đối tượng nào nhập khẩu chính, đặc biệt là nhập khẩu phục vụ sản xuất kinh doanh, không phải do tiêu dùng. Nhập khẩu cho sản xuất, cần được phân tích kĩ lưỡng, thấu đáo. Cần chỉ ra DN loại nào, thuộc ngành nào nhập khẩu nhiều, nhập khẩu từ đâu.

Đặc biệt, cần giám sát nhập khẩu của các đơn vị nhà nước, các công trình đầu tư công. Tránh tình trạng tiêu dùng tiền chùa nên bất chấp giá cả, gây lãng phí.

Liệu chúng ta có vượt qua được tình hình khó khăn này hay không là dựa vào sự cương quyết của Chính phủ, sự nỗ lực và đồng thuận xã hội.

5. Đầu tư công

Thời gian qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều chuyên gia kinh tế đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về hiệu quả đầu tư và lãng phí trong đầu tư của các tập đoàn kinh tế, DNNN - được xem là "sào huyệt" của lãng phí đầu tư công. Trong đó điểm nóng chính là làn sóng đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn kinh tế. Thực tế, con số thu về không đủ để bù chi. Năm 2006 các DNNN đã vay 48.500 tỷ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, nhưng chỉ làm ra 42.000 tỷ đồng. Con số chi của các tổng công ty, tập đoàn vượt dự toán lên đến 261%. Huy động vốn gần hơn 20 lần số vốn tự có của mình nhưng thay vì tập trung đầu tư cho lĩnh vực được giao trọng trách, các DN này quay sang đầu tư sang những lĩnh vực "nhạy cảm", không tạo giá trị thực trong GDP. 28/70 tập đoàn kinh tế "lấn" sang chứng khoán, bất động sản. Trong khi thực tế cho đến nay, hầu hết các đầu tàu kinh tế là các TĐ lại vẫn chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu phát triển của lĩnh vực hoạt động chính.

Sự phân tán nguồn lực này đã đẩy các tập đoàn kinh tế (TĐKT) vào tình trạng tự làm yếu mình và làm yếu đi sức mạnh kinh tế vĩ mô khi mà chính doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phải cạnh tranh với DNNN. Sâu xa hơn thế, khi các TĐKT không theo kịp nhu cầu phát triển thì Nhà nước và nhân dân gánh chịu hậu quả, nguồn lực Nhà nước bị phân tán nghiêm trọng.

Theo số liệu của Ban Đổi mới và Phát triển DNTƯ thì tính đến hết 2007, đã có tới 16 TĐKT và TCty lao vào "hớt váng mỡ" tại các lĩnh vực nóng như đầu tư tài chính, NH, CK, BĐS. Đặc biệt, khoản tiền mà các DNNN rót vào lĩnh vực này không hề nhỏ với tổng giá trị đạt đến hơn 15.000 tỉ đồng. Nhìn vào đây sẽ thấy, một lượng tiền cực lớn đã được đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ phi sản xuất. Tại cuộc họp giữa Thủ tướng Chính phủ với các TĐKT và DNNN, các chuyên gia đã công bố số liệu: Các TĐKT và DNNN hiện đang chiếm tới vài chục phần trăm nợ NH và nợ nước ngoài.

Các chuyên gia khẳng định, việc vay tiền để đầu tư ngoài ngành đã là mạo hiểm. Tuy nhiên, còn mạo hiểm hơn thế khi mà các TĐKT này lại đem tiền của Nhà nước, đem tiền vay từ nước ngoài để ném vào chính những lĩnh vực rủi ro cực lớn như trên... Đáng lưu ý hơn thế là hầu hết các DN này lại không hề có lợi thế cạnh tranh về kỹ năng quản trị, nhân lực...

Theo ông Tuấn Anh (Bộ Công Thương) thì những TĐKT chính là những đầu kéo của nền kinh tế. Đầu kéo này không chỉ đảm bảo "an ninh kinh doanh" của lĩnh vực, ngành hoạt động chính, mà còn có tác dụng hỗ trợ các ngành khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay thì chưa hề thấy vai trò này của các đầu kéo. Thậm chí, do việc phân tán nguồn lực, tự làm yếu mình nên những TĐKT thường xuyên phải nhận sự hỗ trợ từ Nhà nước và chia sẻ gánh nặng từ nhân dân.

Muốn các DNNN tự cắt giảm đầu tư không phải là việc đơn giản, nhất là trong bối cảnh nhà nước trao quyền tự chủ tài chính cho DN. Trên thực tế, đến nay vẫn chưa có quy định pháp lý nào cấm các TĐKT thực hiện ĐTNN. Vì vậy, Thủ tướng đã "tuýt còi" bằng việc yêu cầu Bộ Tài chính xây dựng quy định về việc đầu tư của các TĐKT. Nhưng như Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam Benedict Bingham đã nói, những bước tiếp theo phải là sản phẩm, hành động cụ thể. Chúng ta phải nhìn thấy được chiến lược biến thành hành động như thế nào.

Nguồn: VNEP, tháng 5/2008