Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

“Nội soi” nền kinh tế: Nhìn từ nhập siêu (03/06)

06/08/2010 - 60 Lượt xem

Nhập siêu là điều tất yếu đối với “cơ thể đang lớn” cần “ăn nhiều, ăn khỏe” nhưng nếu nhìn vào cơ cấu nhập khẩu, nhập siêu của Viện Nam lại đang phản chiếu một nền kinh tế kém hiệu quả, là hệ quả cũng như phát sinh của các “căn bệnh đương thời” như lạm phát, đầu cơ, thiếu nhân lực cao….

Một cách từ từ và lặng lẽ, từ cuối năm 2007 đến nay, tỷ trọng nhập siêu tăng mạnh dần theo các tháng, bất chấp những nỗ lực kìm chế của chính phủ. Đáng chú ý, có tới 82,4% tổng trị giá nhập siêu nghiêng về khu vực kinh tế trong nước (11,9 tỷ USD) với những phần tăng nổi cộm như ôtô tăng 600%, linh kiện ôtô: 300%, thép các loại: 200%, máy tính và linh kiện: tăng 43,1%, máy móc thiết bị: tăng 42,5%, phân bón các loại: tăng 39,5%…

Ngoài ra, trong 5 tháng đầu năm 2008, Việt Nam đã chi ra trên 1 tỷ USD nhập khẩu vàng cũng như khoảng 4 tỷ USD nhập khẩu phôi thép, phân bón, xi măng… mang hơi hướng đầu cơ.


Bỏ qua những nguyên nhân bề nổi - dù cũng rất quan trọng - khiến nhập siêu gia tăng là tăng giá thế giới hay nguyên nhân nhất thời là biến động tỷ giá, đầu cơ hàng hóa…. cơ cấu nhập khẩu đã phản chiếu rõ nét thực trạng nền kinh tế Việt Nam.

Không thể phủ nhận, với một nền kinh tế đang trỗi dậy như Việt Nam, tỷ lệ nhập siêu là khó tránh khỏi để «nạp năng lượng» chuẩn bị cho kỳ vọng «cất cánh». Thực tế, gần 18 năm nhập siêu liên tục của Việt Nam (từ 1990 đến nay, trừ 1992 xuất siêu) cũng cho thấy trên 90% hàng nhập khẩu là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu… tóm lại hầu hết là đầu vào phục vụ nhu cầu đầu tư.

Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư tính đến tháng 5/2008, nhập siêu đã lên đến 14,4 tỷ USD – cao gấp 3,4 lần so với cùng kỳ năm ngoái và đạt con số đỉnh điểm trong vòng 18 năm trở lại đây. Với đà này, doanh số nhập siêu năm 2008 chắc hẳn sẽ làm lạc hậu « dự đoán xấu » - 20 tỷ USD nhập siêu mà Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Thành Biên đưa ra cách đây hơn 2 tháng.

Chưa kể với nền kinh tế có độ mở thuộc dạng cao nhất nhì khu vực châu Á, với tỷ lệ kim ngạch XNK lên đến gần 70% GDP, Việt Nam không thể không đẩy mạnh nhập khẩu. Vì nhập khẩu chính là động lực và đầu vào cho tăng trưởng xuất khẩu. Càng muốn tăng xuất khẩu càng buộc phải đẩy mạnh nhập khẩu - không còn cách nào khác!

Nhất là từ năm 2007 đến nay, nguồn cung ngoại tệ thuận lợi cũng là một yếu tố tranh thủ để nhập khẩu đầu tư chiều sâu cho nền kinh tế.

Nếu chỉ dừng ở con số và lập luận này, 14,4 tỷ USD chưa nói lên điều gì.

Nhưng soi kỹ hơn vào cơ cấu nhập khẩu mới thấy «độ vênh» lớn giữa tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu thô, bán thành phẩm với máy móc, thiết bị (bình quân 58,5% so với 27,.8% trong suốt giai đoạn 1991 - 2007), chưa kể phần nhập khẩu dịch vụ.

Rõ ràng, chưa đến 30% tỷ trọng nhập khẩu dành cho máy móc, thiết bị - nghĩa là chỉ khoảng chừng đó có vẻ được dành cho đầu tư theo chiều sâu. Một tỷ lệ quá thấp để đạt kỳ vọng «đưa Việt Nam thành nước Công nghiệp hóa vào năm 2020».

Đó là còn chưa tính được bao nhiêu % trong số 27,8% đó dành cho khu vực sản xuất trong nước, bao nhiêu % mua máy móc thiết bị chỉ để làm hàng xuất khẩu gia công.

Như vậy, với xấp xỉ 60% tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên liệu, gần 20 năm qua, Việt Nam vẫn không thoát khỏi vai trò «công xưởng gia công», làm nhiều mà giá trị tăng thấp. Thực tế, các mặt hàng được coi là chủ lực, đóng góp cho «thành tích xuất khẩu» hàng năm cũng chính là những «thủ phạm» nhập khẩu rất nhiều như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử, máy tính, sản phẩm nhựa….

Phải tốn rất nhiều mồ hôi mới đổi được rất ít ngoại tệ, sau khi đã «trừ đầu trừ đuôi».


Nhưng đó vẫn chưa phải là đoạn cuối của bức tranh đáng thất vọng.

Vì vẫn còn một «độ vênh» khác, đáng buồn không kém, đó là tỷ trọng nhập siêu và xuất siêu của khu vực kinh tế trong nước với khu vực có vốn nước ngoài. Nhìn vào số liệu của Tổng cục Thống kê trong 10 năm liên tục, suốt từ năm 1997-2007 sẽ thấy trong khi các doanh nghiệp trong nước luôn nhập siêu, liên tục trong suốt 10 năm qua thì khu vực FDI lại liên tục xuất siêu.

Không cần phải so sánh, chỉ nhìn thôi đã thấy ngay khu vực nào thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Dĩ nhiên, không thể không nói đến đặc thù của khối FDI vốn chỉ chọn Việt Nam để tận dụng sức lao động rẻ (và họ đã tận dụng hiệu quả) để tập trung xuất khẩu trong khi khối doanh nghiệp trong nước còn phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa.

Hơn 20 năm thực hiện chính sách thu hút FDI tại Việt Nam, chúng ta đã có thêm rất nhiều nhà máy - thực chất là nhiều xưởng mồ hôi nhưng có rất ít các nhà máy thuộc lĩnh vục công nghệ cao. Thực tế, tỷ lệ nhập khẩu dịch vụ và các gói công nghệ cao vào VN hầu như không đáng kể.

Nhưng chúng ta có thể trách ai, khi mà Intel đổ hàng tỷ USD vào Việt Nam với dự định tuyển 2000 kỹ thuật viên mà tìm khắp cả nước chỉ được 40 người ? Từ câu chuyện này, lại thấy thực trạng đáng buồn của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam.

Tỷ trọng nhập siêu (dấu âm)

Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Cả nước - 2,4 - 2,14 - 0,20 - 1,46 - 1,81 - 2,83 - 5,10 - 5,49 - 4,32 - 5,37 - 12,4
FDI 0,017 0,547 1,300 2,458 1,813 1,168 1,346 3,401 4,914 6,525 6,200
Trong nước - 2,42 - 2,69 - 1,50 - 3,61 - 3,00 - 4,21 - 6,45 - 8,89 - 9,23 - 1,89 - 20,30



Quay trở lại với xuất nhập khẩu, với mức thâm hụt mỗi năm và mức lạm phát chóng mặt, có thể nói ngay, chúng ta đã «vung tay» đầu tư và tiêu dùng «quá trán» trong nhiều năm.

Có thể thấy, xu thế xài sang và phân hóa mức sống trong xã hội Việt Nam ngày càng rõ nét. Trong khi 80% dân cư vật lộn với lạm phát thì vẫn có nhiều người chấp nhận trả thuế cao để sở hữu ô tô “đẳng cấp” và mới đây là cả máy bay riêng. Chính vì thế, dù Chính phủ đã tăng thuế ô tô trở lại nhưng lượng ô tô ngoại nhập vẫn khó giảm. Theo bà Trần Thị Hằng - Vụ trưởng Vụ Thương mại, dịch vụ và giá cả Tổng cục Thống kê, tính chung 5 tháng đầu năm đã có hon nửa tỷ USD được chi ra để nhập về 35.400 ô tô dưới 9 chỗ vào VN, tăng 6 lần so với cùng kỳ 2007.

Nhưng xe hơi chỉ là điển hình cho một nhóm hàng tiêu dùng và chưa đáng lo ngại bằng những khoản đầu tư tiền tỷ nhưng lại không đem lại hiệu quả thực tế. Đó là những dự án đầu tư công mà vừa qua Chính phủ đã phải xếp vào nhóm “lãng phí, không hiệu quả” để tạm dừng hoặc cắt giảm. Phải chăng đó chính là căn cứ để T.S Nguyễn Quang A tính toán ra chỉ riêng trong năm 2007, giá thực tế mức đầu tư và tiêu dùng của khu vực trong nước vượt giá trị mới do nó tạo ra khoảng 45% ?

Nhập siêu - mặt tốt là để nạp đầu vào, để “bơm máu” cho sự phát triển và cất cánh nhưng nhập siêu như thế nào để hiệu quả lại là vấn đề khác. Con số 14,4 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm lẽ ra sẽ không đáng lo ngại nếu phần lớn tỷ trọng là máy móc, thiết bị, công nghệ để đầu tư chiều sâu. Tiếc là cơ cấu nhập khẩu đang thể hiện căn bệnh nội tại của nền kinh tế và đã kéo dài trong nhiều năm, chứ không phải cơn cảm nắng nhất thời vì ảnh hưởng thời tiết xấu của biến động giá cả thế giới. Điều gì sẽ xảy ra khi mối nguy nhập siêu này không còn được «bù lấp», «che chắn» bằng các luồng ngoại tệ như vốn FDI, FII, ODA và kiều hối ?

Còn nhớ cách đây mấy tháng, trong cuộc gặp gỡ các thương vụ đầu năm, ông Nguyễn Ngọc Hải, Tham tán Thương vụ Việt Nam tại Singapore đã thẳng thắn chỉ ra “Nhập siêu tăng cao là hệ quả của một nền kinh tế không hiệu quả” và nguyên nhân chính là từ «trình độ điều hành và quản lý một nền kinh tế từ vĩ mô trở xuống còn hạn chế, chính sách giật cục và xử lý nhiều vấn đề nhỏ một» .
Nguồn: Vietnamnet