
Tin tức
Cận cảnh…. nhập siêu (04/06)
06/08/2010 - 65 Lượt xem
Nhà làm được nhưng phải đi… mua
Nhìn vào 60% tỷ trọng nhập khẩu là nguyên vật liệu, bạn nghĩ gì?
Việt Nam là một nước «rừng vàng, biển bạc, con người cần cù» vậy tại sao đến cả nguyên vật liệu cũng phải nhập khẩu? Chiếm tỷ trọng cao trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam, nhất là nguyên vật liệu là nước láng giềng Trung Quốc. Từ mũi kim, sợi chỉ, vải vóc cho hàng may mặc, đồ da, phụ liệu ngành giày dép đến phân bón, giống lúa… Việt Nam cũng phải nhập từ Trung Quốc. Phải chăng đó đều là những thứ Việt Nam không đủ khả năng sản xuất ?
Một ví dụ điển hình cho cơ sự «nhà làm được mà vẫn phải đi mua» là ngành chế biến gỗ. Năm 2007, ngành gỗ đã phải chi 1 tỷ USD để mua gỗ nguyên liệu từ nước ngoài để xuất được 2,35 tỷ USD. Rõ ràng, nếu có nguồn cung trong nước, không tốn quá nhiều chi phí đi lại, vận chuyển, thuế má… ngành gỗ sẽ thu được gía trị thặng dư nhiều hơn. Nền kinh tế sẽ bớt đi 1 tỷ USD nhập siêu, một con số không hề nhỏ nếu so với 12,4 tỷ USD nhập siêu năm 2007.
Theo tính toán sơ bộ, năm 2010, VN sẽ phải chi trên 3 tỷ USD, năm 2018 là trên 10 tỉ USD nếu tình hình không được thay đổi đột phá từ bây giờ. Đó là chưa kể ngoài tốn tiền nhập khẩu, các doanh nghiệp còn phải mua thêm rủi ro có thể bị cắt, hoặc thu hẹp nguồn cung bất cứ lúc nào, có thể bị kiện cáo về xuất xứ đồ gỗ…
Đương nhiên, hơn 10 triệu dân lâm nghiệp cũng thiệt thòi theo khi không những không được tham gia công đoạn cung ứng nguyên liệu cho ngành công nghiệp nhiều triển vọng này mà còn không thể có tham vọng xuất khẩu gỗ nguyên liệu cho các nước khác.
Một mặt hàng khác liên quan đến mọi thành phần kinh tế đó là xăng dầu. Việt Nam là nước có dầu xuất khẩu, lẽ ra có thể «mỉm cười» khi giá dầu thô tăng. Nhưng thay vì thế, chúng ta cứ phải «sốt vó» lên thắt lưng buộc bụng vì xuất được 1 đồng dầu thô lại phải nhập về tương đương sản phẩm xăng dầu. Vài năm trước, cứ mỗi khi xăng dầu lên giá lại thấy kế hoạch đẩy mạnh mở nhà máy lọc dầu chỗ này chỗ kia, thậm chí có cả kế hoạch mang dầu sang Singapore để… lọc. Nhưng nhiều năm qua đi, vẫn thấy Chính phủ khổ sở, loay hoay với bài toán cân đối, bù lỗ giá xăng dầu, để tránh dây chuyền tăng giá hàng loạt.
Hàng nông sản, thực phẩm Việt Nam dư sức đáp ứng nhu cầu trong nước nhưng cách thức tổ chức sản xuất manh mún và thiếu chuyên nghiệp, thiếu liên kết nên người tiêu dùng Việt Nam vẫn ăn đường nhập ngoại trong khi nông dân chặt mía vì nhà máy đường hoạt động cầm chừng. Các dãy núi đá vôi phía bắc có thể cung cấp đủ clinke, xi măng... nhưng người tiêu dùng lại thích hàng nhập hơn vì giá rẻ.
Rõ ràng, những ví dụ trên đây đã cho thấy nhiều nhóm hàng nhập khẩu không phải Việt Nam không sản xuất được mà do chưa có cơ chế rõ ràng, chưa có quy hoạch cụ thể hay đơn giản là do năng suất lao động kém mà không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập.
Có nhiều thứ trong nhà làm được mà vẫn phải đi mua là thế! Chẳng trách nhập siêu tăng!
Hệ quả của tư duy bảo hộ và ăn xổi
Để giảm nhập siêu, cách đầu tiên là tăng thuế, hạn chế nhập khẩu. Và đây là câu chuyện đã diễn ra trên thị trường ô tô.
Ai được lợi từ quyết định này ?
Không phải người tiêu dùng vì khi đã cần mua họ cũng có thể cắn răng chi thêm tiền «đội thuế ». Bằng chứng là dù lạm phát tăng cao, thuế ô tô tăng nhưng lượng nhập khẩu xe hơi nguyên chiếc vẫn không giảm. Biện pháp này không làm giảm đáng kể tỷ trọng nhập siêu.
Được lợi ở đây chính là các hãng sản xuất –mà phần lớn là lắp ráp - ô tô trong nước. 16 năm được bảo hộ, thay vì có một ngành công nghiệp ô tô phát triển như kỳ vọng, Việt Nam chỉ 11 liên doanh ô tô, 160 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp, sửa chữa ô tô và rất nhiều đại lý bán xe với giá cắt cổ. Đầu vào nguyên liệu chủ yếu là nhập khẩu linh kiện về hoàn thiện.
Kết quả, khi thị trường «hé mở » - 3 lần giảm thuế - theo cam kết với WTO tức thì lượng ô tô nhập khẩu bùng phát và khó hãm phanh kể cả khi tăng thuế trở lại.
Đã đến lúc phải tự hỏi, liệu bao nhiêu mặt hàng sẽ bùng phát « nhập siêu tiêu dùng » tương tụ ô tô khi thị trường bán lẻ buộc mở rộng của vào năm 2009 ?
Không được bảo hộ nhưng nhiều ngành sản xuất khác lại quá dựa dẫm vào ưu thế lao động rẻ mà không chú trọng đầu tư chiều sâu. Hầu hết các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều đi theo xu hướng này. Dệt may, da giày… là điển hình của việc thực trạng xuất nhập khẩu Việt Nam khi đây là những ngành chủ lực trong cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Vấn nạn khan hiếm lao động trong khi không thiếu nhân công, vấn nạn đình công ở các nhà máy dệt may, da giày là kết quả của việc đầu tư ăn xổi, dựa vào giá lao động rẻ mạt làm lãi.
Một ví dụ khác là ngành thép. Chỉ có 8/21 doanh nghiệp sản xuất thép trong nước là tự sản xuất phôi, đáp ứng 40% nhu cầu sản xuất nên khi giá phôi thép thế giới tăng, ngành này cũng dóng góp đáng kể vào chi phí nhập khẩu (năm 2007 nhập khẩu 4,9 tỷ USD phôi thép). Mãi vài tháng gần đây trong Quy hoạch chiến lược cho ngành thép đến 2015 mới khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thép phải luyện phôi rồi mới được cán thép, trước hầu hết chỉ đầu tư công đoạn cán mà thôi. Nhiều công nghiệp của Việt Nam thiên về lắp ráp cũng vì ngành công nghiệp phụ trợ dù đã được đề ra từ lâu nhưng phát triển đì đẹt - thà nhập khẩu cho nhanh.
Rõ ràng khi «zoom» vào những ngành hàng cụ thể, có thể thấy Việt Nam có nhiều thứ lẽ ra không phải nhập siêu nhưng vẫn phải nhập vì thiếu cơ chế thực sự khuyến khích. Quy hoạch thế nào, tạo cơ chế thuận lợi ra sao để mọi ngành hàng phát huy hiệu quả là việc mà các Bộ, ngành phải làm thay vì chỉ khuyến khích chung chung hay vì lợi ích nhóm này nhóm kia hoặc đổ lên đầu doanh nghiệp và người tiêu dùng qua công cụ thuế.
Nguồn: Vietnamnet
