
Tin tức
Khắc phục lạm phát: Những biện pháp táo bạo một thời! (12/06)
06/08/2010 - 42 Lượt xem
Xử lý lạm phát và đổi mới hệ thống ngân hàng
Khắc phục lạm phát phi mã
Đại hội lần thứ VI năm 1986 đã định ra đường lối đổi mới, tạo ra bước ngoặt cho kinh tế Việt Nam. Vài ba năm kế tiếp sau đó, tư duy kinh tế thị trường trong lãnh đạo hình thành ngày càng dứt khoát, mạch lạc, thể hiện trong nhiều chủ trương cụ thể như: xoá bỏ quan liêu bao cấp không chỉ với lĩnh vực đời sống mà còn với lĩnh vực sản xuất, phân phối nguồn lực, trao quyền tự chủ cho xí nghiệp quốc doanh hạch toán kinh doanh, khắc phục tình trạng “lãi giả - lỗ thật”. Xoá bỏ ngăn sông cấm chợ với thị trường trong nước và bước đầu với thị trường ngoài nước.
Trước đây, hàng hoá và ngoại tệ không phải của Nhà nước, không nằm trong quyết định của kế hoạch nhà nước đều bị coi là tác nhân gây rối, thậm chí lũng đoạn kinh tế. Nay, những biện pháp tưởng chừng cụ thể nhỏ nhặt ấy đã đem lại cho khu vực thị trường cơ hội pháp lý mở rộng không gian tự do xoay xở trong việc tự phân phối những nguồn lực mới, sản xuất đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu kinh tế. Hiện tượng lạm phát phi mã, theo đó, đã giảm dần.
Cho tới năm 1989, cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tuy đã suy yếu nhưng vẫn được bảo đảm bởi những nguyên tắc chính yếu: Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh còn hiệu lực; ngân hàng đơn cấp chỉ phục vụ khu vực kế hoạch nhà nước, xuất nhập khẩu là hoạt động độc quyền của Nhà nước; tư liệu sản xuất nhập khẩu và sản xuất từ kế hoạch nhà nước do Nhà nước nắm quyền phân phối; giá cả hàng hoá sản xuất, lưu thông trong kế hoạch do Nhà nước ấn định; ngoại tệ nằm trong tay Nhà nước và Nhà nước ấn định tỷ giá.
Tuy nhiên, vào năm 1989, theo tinh thần của đường lối Đại hội VI và các nghị quyết Trung ương khoá VI, Nhà nước đã vượt qua những nguyên tắc tưởng như bất di bất dịch đó, đi đến những quyết định quan trọng.
Những quyết định mang tính cách mạng
Những quyết định ấy là: xoá bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, trao toàn quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh; từ bỏ quyền phân phối và giao lại nguồn lực cho thị trường; dưới tên gọi “thương mại hóa” tư liệu sản xuất, cho phép hàng loạt doanh nghiệp địa phương và xí nghiệp quốc doanh lớn trực tiếp xuất nhập khẩu; tự do hoá giá cả, từ năm 1989 trong nền kinh tế chấm dứt tình trạng hai giá, chỉ còn duy nhất một hệ thống giá thị trường.
Nhà nước cũng liên tục điều chỉnh lại tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng rúp và đôla sát với tỷ giá hình thành ngoài thị trường. Cũng trong năm 1989, Nhà nước đã có một quyết định dũng cảm, xoá bỏ bao cấp lương thực, thực phẩm cho hàng triệu công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang và dân cư đô thị. Theo đó, bãi bỏ chế độ thu mua, trao đổi đối lưu hàng hoá với nông dân, giải phóng cho thị trường nông thôn rộng lớn.
Bộ máy chính phủ duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch có những thay đổi lớn. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước được xác định lại chức năng nhiệm vụ; Bộ Vật tư, Bộ Lương thực, Uỷ ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước được giải thể; Uỷ ban Vật giá Nhà nước được thu hẹp. Hệ thống cửa hàng cung cấp lương thực của Nhà nước, không còn lý do tồn tại. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh phải giải thể từng mảng lớn và 12.000 xí nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại chỉ còn 6.000 xí nghiệp.
Từ đây chấm dứt thời kỳ nền kinh tế vật vã tồn tại dưới cơ cấu kép vừa kế hoạch vừa thị trường, đổi mới dứt khoát sang một cơ cấu đồng nhất – thị trường. Thành tựu được nhìn thấy đầu tiên là từ giữa năm 1989, tình trạng rối loạn giá cả, rối loạn trong quá trình phân phối, lưu thông hàng hoá chấm dứt; lạm phát phi mã được chặn đứng, nền kinh tế đi nhanh vào ổn định, không khí kinh doanh tràn ngập.
Riêng thành tựu khắc phục lạm phát phi mã ở Việt Nam thời kỳ 1980 – 1989, có thể nói, đã được khắc phục bằng cả tổng lực của công cuộc đổi mới, phá bỏ cơ chế khiến lạm phát tự duy trì, không riêng gì giải pháp lẻ loi, yếu ớt như việc nâng lãi suất tiền gửi lên 12%/tháng giữa năm 1989 trong khi lạm phát tới 740% năm.
Hơn nữa, Việt Nam lúc ấy chính thức vẫn là nền kinh tế kế hoạch, một nền kinh tế tiền tệ yếu, mức cung tiền chính thức của ngân hàng nhà nước chưa tới 20% GDP, tiền gửi tiết kiệm không quá 5% GDP.
Liệu một lượng tiền tiết kiệm ít ỏi thu hút vào ngân hàng có làm giảm mức cầu tiêu dùng, giảm áp lực lạm phát cao và, khi mọi doanh nghiệp đang căng thẳng tiền vốn, tiền gửi lập tức quay ra thị trường thì giải pháp nâng lãi suất có thực sự đủ mạnh chặn đứng lạm phát phi mã?
Đổi mới hệ thống ngân hàng
Như ngân hàng của những nền kinh tế theo phương thức kế hoạch hoá, trước năm 1989, ngân hàng của Việt Nam cũng là hệ thống một cấp, duy nhất một ngân hàng nhà nước từ Trung ương đến các chi nhánh địa phương. Nó có chức năng phát hành đồng tiền quốc gia, phân phối tín dụng theo chỉ tiêu pháp lệnh của kế hoạch nhà nước, làm nghiệp vụ kho bạc – thu chi ngân sách theo lệnh Bộ Tài chính, làm nghiệp vụ thanh toán giữa các xí nghiệp quốc doanh và thanh toán đối ngoại.
Chính sách tiền tệ và những công cụ chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô đều không được sử dụng vì không có ý nghĩa gì với kinh tế kế hoạch hoá. Ngân hàng vẫn đứng ngoài cuộc với khu vực kinh tế thị trường nóng bỏng cũng như Bộ Vật tư đóng cửa không cho tư liệu sản xuất của Nhà nước ra thị trường.
Năm 1989, sau những chủ trương đổi mới có tính bước ngoặt, xoá bỏ chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh, tự do hoá phân phối tư liệu sản xuất và tự do hoá giá cả, kinh tế thị trường được chính thức xác lập, việc đổi mới tất yếu tiếp theo là xây dựng khuôn khổ thể chế cho việc hình thành hệ thống ngân hàng mới hai cấp, tách biệt chức năng điều tiết chính sách tiền tệ của cấp ngân hàng Trung ương với chức năng kinh doanh phân phối nguồn lực tài chính cho thị trường của cấp các ngân hàng thương mại.
Giữa năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) giao cho ông Cao Sỹ Kiêm, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, cùng phối hợp với một nhóm chuyên gia độc lập do Hội đồng Bộ trưởng chỉ định cùng soạn thảo hai pháp lệnh ngân hàng.
Một pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) và một pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Việc soạn thảo đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt.
Trong số những chuyên gia độc lập, có giáo sư Phan Văn Tiệm (lúc đó đang là Chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước), các ông Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn cựu viên chức ngân hàng của chính quyền Sài Gòn cũ, ông Nguyễn Thiệu cán bộ giúp việc Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt.
Việc sử dụng một nhóm chuyên gia ngoài biên chế ngân hàng với chuyên gia Ngân hàng Nhà nước, và sau này giúp Ngân hàng Nhà nước triển khai thực hiện là cách làm mới mẻ của người chỉ đạo trực tiếp, nhằm lắng nghe ý kiến độc lập và tranh luận nhất trí giữa hai nhóm chuyên gia đồng soạn thảo pháp lệnh đổi mới ngân hàng.
Sau hơn bốn tháng làm việc khẩn trương, vượt qua nhiều cuộc tranh luận thẳng thắn, mấy lần trình xin ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt, hai dự thảo pháp lệnh hoàn thành. Sau đó, hai dự thảo được mang sang Paris nhờ Ngân hàng Trung ương Pháp đánh giá; nhờ Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thẩm định và cử chuyên gia sang Hà Nội tổ chức một lớp tập huấn cho cán bộ Ngân hàng Nhà nước.
Tháng 5 năm 1990, hai pháp lệnh bắt đầu có hiệu lực thi hành sau khi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công phê chuẩn. Hai pháp lệnh Ngân hàng đem lại nhận thức mới và cơ hội pháp lý tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước theo mô hình Ngân hàng Trung ương, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh theo hướng kinh doanh đa năng.
Lần đầu tiên, hàng loạt ngân hàng cổ phần tư nhân được phép ra đời và cũng lần đầu tiên, Việt Nam mở cửa cho ngân hàng nước ngoài thành lập liên doanh hoặc mở chi nhánh.
Có thể nói, với Luật Đầu tư nước ngoài và hai pháp lệnh Ngân hàng, vào thời điểm năm 1989 – 1990, Việt Nam đã có hai cam kết pháp lý đầu tiên mở cửa ra bên ngoài và cũng là hai công cụ pháp lý có vai trò đột phá, thúc đẩy Việt Nam chuyển đổi nhanh, sâu rộng sang kinh tế thị trường. Tiếp sau đó, hình thái kinh tế thị trường ở Việt Nam càng được khẳng định bởi các Luật Công ty, Luật Thương mại, Luật Dân sự, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi)…
Những thành tựu đầu tiên
Đến năm 1993, hệ thống ngân hàng đổi mới đi dần vào nề nếp, hoạt động theo hướng thị trường, bình thường hoá quan hệ với IMF, WB, ADB. Ở cấp hoạch định chính sách tiền tệ, điều tiết và giám sát có Ngân hàng Nhà nước làm chức năng Ngân hàng Trung ương; ở cấp kinh doanh tín dụng có bốn ngân hàng thương mại quốc doanh, hàng chục ngân hàng cổ phần tư nhân, ba ngân hàng liên doanh với ngân hàng nước ngoài và hàng chục chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Những thành tựu bước đầu có tính đột phá của hệ thống ngân hàng mới là vượt qua nỗi ám ảnh của tâm lý sợ “Tiền ra thì giá lên”, chỉ trong vài tháng đã hạ lãi suất tiền gửi từ 12%/tháng xuống 2%/tháng, tăng nhanh cung tiền với tốc độ 30 – 40%/năm, khắc phục nạn khan hiếm tiền mặt, tín dụng ngoài ngân hàng lùi nhanh nhường chỗ cho thị trường tiền tệ chính thức phân phối nguồn lực tài chính cho kinh tế thị trường nảy nở sôi động.
Ở giai đoạn khởi phát, hệ thống ngân hàng Việt Nam không tránh khỏi non nớt nhưng bù lại là sự thận trọng, sự quan tâm sát sao của Thường trực Chính phủ với mục tiêu là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, quá trình tự do hoá được nới lỏng dần dần. Tiến trình ấy đã giúp ngân hàng có những thành công gây ấn tượng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định, vượt qua những cú sốc kinh tế trong nước và khu vực.
Việc thực hiện tư duy và chủ trương đổi mới ngân hàng, được thể hiện trong hai Pháp lệnh Ngân hàng năm 1989 – 1990, vì nhiều nguyên nhân, chưa được thật nhất quán, liên tục, mạnh mẽ, với những bước phát triển mới cần thiết. Thành tựu lẽ ra đã có thể lớn hơn.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam còn đang vận động đi lên trong tiến trình tiếp tục đổi mới, và nếu tiến trình ấy có những bước cải cách nhanh hơn, Ngân hàng Nhà nước sớm trở thành Ngân hàng Trung ương chủ động hơn, ngân hàng thương mại lành mạnh hơn… thì mức độ thành công sẽ tốt đẹp hơn.
Nguồn: Vietnamnet
