Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Có “siết” được đầu tư ngoài ngành? (30/06)

06/08/2010 - 30 Lượt xem

Sau khi yêu cầu các Tập đoàn, tổng công ty (TCT) nhà nước không được đầu tư ra ngoài lĩnh vực chính yếu quá 30% vốn chủ sở hữu cách đây gần một tháng, ngày 6 tháng 6 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục có văn bản yêu cầu các tập đoàn, TCT này khi đầu tư vào các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi thực hiện. Bộ Tài chính cũng được giao nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
 
Việc đưa ra các yêu cầu này với những tập đoàn kinh tế, các TCT lớn của Nhà nước dường như  là tất yếu, bởi hơn 1 năm trở lại đây, các doanh nghiệp Nhà nước đã đầu tư ồ ạt vào các lĩnh vực không phải là ngành nghề kinh doanh chủ đạo của mình, đặc biệt khi thị trường chứng khoán trở nên hết sức sôi động vào nửa cuối năm 2007.Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói thì sự mở rộng hoạt động của các tập đoàn, các TCT lớn sang những lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán hay bất động sản - vốn không phải là ngành nghề kinh doanh chính khi các doanh nghiệp này được thành lập - không hoàn toàn chỉ là phong trào.  
 
Các tập đoàn, TCT theo mô hình mẹ -  con đuợc thành lập trong hai, ba năm trở lại đây như một bước tiếp theo trong quá trình cải cách, tái cơ cấu TCT nhà nước hoạt động theo mô hình TCT 90, 91 trước đó đã được chấp thuận hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực.
 
Sự mở rộng phạm vi hoạt động này cùng với cơ chế quản lý tài chính theo hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ về tài chính, chủ động huy động các nguồn lực cũng đã từng được Bộ Tài chính đánh giá cao bởi “thúc đẩy sản xuất và phát triển các dịch vụ”. Số liệu của Bộ Tài chính công bố tháng 4/2008 cho thấy, các doanh nghiệp nhà nước đã làm ra khoảng 40% GDP của cả nước (khoảng 30 tỷ USD). Cho tới ngày 31/12/2007, tổng giá trị tài sản của 70 tập đoàn, TCT nhà nước đạt 803.748 tỷ đồng nhưng phần đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp cũng lên tới 116.786 tỷ đồng, trong đó 28/70 tổng công ty có hoạt động đầu tư vào chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng với giá trị 23.344 tỷ đồng. Sự mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán của các doanh nghiệp nhà nước còn bởi đây cũng là những lĩnh vực được coi là “màu mỡ”. Tại không ít hội nghị với Chính phủ, với cơ quan hữu trách và cả với báo chí, các doanh nghiệp lớn, nhỏ đã công khai bày tỏ bức xúc về chuyện doanh nghiệp sản xuất “còng lưng” ra làm mà lợi nhuận lắm khi chỉ đủ trả lãi vay ngân hàng! Trong khi đó không phải lúc nào đi vay cũng được ngân hàng “chào đón nhiệt tình”, nhất là khi nền kinh tế có những khó khăn thì doanh nghiệp phải chầu chực, săn đón để vay được vốn là chuyện không hiếm.
 
Cũng bởi ý tưởng “không để lợi nhuận chạy ra ngoài”, “lọt sàng, xuống nia” hay “dễ vay hơn” nên chuyện đua nhau xin lập ngân hàng trong tập đoàn; rồi liên kết, góp cổ phần vào các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, thành lập công ty tài chính hay công ty bảo hiểm để các đơn vị này dàn xếp những khoản vay hoặc thực hiện bảo hiểm các công trình trong tập đoàn, TCT đã trở thành mục tiêu hàng đầu ngay khi chuyện đa ngành, đa nghề được chấp thuận.
 
Tại cuộc họp báo vào tháng 5 vừa qua, bà Phan Thị Hòa, thành viên HĐQT của Tập đoàn Dầu khí thẳng thắn cho rằng, khái niệm “ngoài ngành nghề chính” vẫn chưa rõ ràng. “Công ty Tài chính Dầu khí có nhiệm vụ thu xếp vốn để thực hiện các công trình trọng điểm trong ngành dầu khí khi mà Công ty mẹ không có chức năng này thì có gọi đầu tư cho công ty tài chính dầu khí là ngoài ngành hay không?”, bà Hòa đặt câu hỏi. Lấy ví dụ thực tế: trên 90% nguồn thu của Công ty Bảo hiểm Dầu khí có được từ việc bảo hiểm các công trình trong ngành dầu khí. Tương tự với Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex là việc bảo hiểm các công trình trong ngành xăng dầu của TCT Xăng dầu - Petrolimex.
 
“Không rơi ra ngoài mà lại có thêm cơ hội mở rộng phạm vi hoạt động của mình” là con đường mà nhiều tập đoàn tư nhân ở nước ngoài đã trải qua. Tuy nhiên, những tính toán khi quyết định mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực ngoài truyền thống ở doanh nghiệp tư nhân, dù lớn hay bé, thường được cân nhắc, tính toán rất kỹ bởi đó là tiền cá nhân. Ngoài ra, tại các nước phát triển, bên cạnh cơ chế công khai, minh bạch thì việc giám sát của pháp luật đối với những hành vi trục lợi và vi phạm luật pháp cũng rất chặt chẽ. Trong khi đó, theo đánh giá của Bộ Tài chính, công tác giám sát doanh nghiệp, công khai hóa tài chính và tình hình quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp nhà nước hiện còn nhiều hạn chế, do nhiều công ty chưa chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo, cơ quan quản lý không nhận được đầy đủ, kịp thời các báo cáo tài chính doanh nghiệp; nhiều nội dung liên quan đến vay nợ nước ngoài, đầu tư ra ngoài doanh nghiệp chưa được giám sát một cách chặt chẽ.
 
Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước cũng đã lập luận “lấy ngắn, nuôi dài” khi đầu tư vào những lĩnh vực phi truyền thống. Nhưng sự mở rộng lĩnh vực và ngành nghề hoạt động này đã khiến doanh nghiệp bị phân tán nguồn lực. Không những vậy, chi phí phải bỏ ra cho các lĩnh vực mới cũng không hề nhỏ, bởi doanh nghiệp đang muốn chứng minh đa ngành, đa nghề vẫn thành công.
 
Theo Bộ Tài chính, tổng mức đầu tư vào các lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy (Vinashin) lên tới 3.323 tỷ đồng, bằng 1,1 lần vốn chủ sở hữu. Điều này khiến người ta không khỏi lo ngại về việc sử dụng tiền tại doanh nghiệp khi cách đây hơn 2 năm, lần phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên của Việt Nam trị giá tới 750 triệu USD với sự bảo lãnh của Bộ Tài chính được dành hoàn toàn cho Vinashin để phát triển công nghiệp đóng tàu! Điều cũng khiến người ta lo ngại nữa là ý tưởng phát triển hàng chục dự án đóng tàu, xây dựng nhà máy thép của Vinashin đang được triển khai trên cả nước hoàn toàn đi ngược với kinh nghiệm quốc tế về giảm chi phí nhờ lợi thế quy mô lớn.
 
Còn với Tập đoàn Điện lực hay Tập đoàn Than - Khoáng sản có hẳn lợi thế độc quyền trong lĩnh vực được giao thì khả năng đáp ứng của các ngành này cho nền kinh tế cũng không sáng sủa. Các công trình xây dựng nhà máy, đường dây diện mà Tập đoàn Điện lực là chủ đầu tư đều chậm hơn kế hoạch ít nhất là 3 – 6 tháng, thậm chí lên tới hàng năm. Các hộ tiêu thụ than trong nước luôn phải lo lắng về nguồn cung cấp than không đảm bảo trong khi lượng than xuất lậu có nguồn gốc tận thu từ các mỏ của Tập đoàn Than- Khoáng sản cũng tới gần chục triệu tấn/năm. 
 
Lĩnh vực kinh doanh chính không cho kết quả tốt trong khi lĩnh vực phụ lại mở rộng rầm rộ và việc giám sát chưa được tốt nên mối quan ngại về việc các doanh nghiệp nhà nước không tuân thủ yêu cầu hạn chế đầu tư ra ngoài ngành là hoàn toàn chính đáng. Ngay cả yêu cầu “phải báo cáo trước khi thực hiện” cũng được nhiều người cho rằng chưa đủ mạnh mẽ, bởi nếu được thông qua nhưng sau đó hoạt động thực tế không có hiệu quả thì thiệt hại cuối cùng vẫn là nền kinh tế và những người đóng thuế.          
Nguồn: DDDN