Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Đầu tư của tập đoàn, Bộ KHĐT chỉ có quyền kiểm tra (29/07)

06/08/2010 - 37 Lượt xem

Kiềm chế lạm phát: Chưa thể vội mừng

- Bộ trưởng đánh giá thế nào về nhận định của một số tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và chuyên gia trong nước cho rằng: tuy nền kinh tế vĩ mô đã bắt đầu có những dấu hiệu ổn định nhưng trước mắt và về trung hạn còn tiềm ần nhiều rủi ro và yếu tố bất ổn?

Bộ trưởng Võ Hồng Phúc: Sau khi thực hiện nhóm 8 giải pháp của chính phủ thì nền kinh tế vĩ mô đã có những bước ổn định nhất định, cụ thể là trong chỉ số giá tiêu dùng. Tháng 7 vừa qua đã đạt mức chỉ số tăng trưởng giá là - 1, 13%, là mức tăng giá thấp nhất trong 7 tháng vừa qua.

Ngoài ra, còn nhiều hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ khác cũng đi vào hoạt động tốt hơn. Ví dụ, tỷ giá đồng tiền Việt Nam. Trước đây, tỷ giá giao dịch trong ngân hàng và tỷ giá tự do đã có sự khác biệt rất lớn. Nhưng gần đây, khoảng cách đó đã xích lại gần nhau. Một điều nữa thể hiện sự ổn định của nền kinh tế là chỉ số VNIndex đã từng bước đi vào ổn định.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhấn mạnh rằng sự ổn định đó chưa bền vững. Chúng ta vẫn phải đề phòng và ngăn ngừa những yếu tố bất ổn định trước mắt. Cụ thể là cần xem xét lại chỉ số giá. Tuy tháng 7, chỉ số giá có giảm nhưng nếu tính cả 12 tháng, tức là so với cùng kỳ năm ngoái (tháng 7/2007) thì chỉ số giá đã tăng đến trên 27%. Đây là mức tăng giá lớn, dẫn đến tỷ lệ lạm phát rất cao.

Còn nếu tính chỉ số giá của 7 tháng thôi, tức là tháng 7 năm nay so với tháng 12/2007 thì sự tăng giá cũng gần xấp xỉ 19,8% - một con số cũng rất lớn, gấp rưỡi chỉ số tăng giá của năm 2007. Với những dấu hiệu như vậy, cộng thêm con số nhập siêu lớn khiến chúng ta không thể chủ quan, lơ là. Cần đề phòng mọi sự rủi ro, đặc biệt là những rủi ro tiềm ẩn bất lợi cho nền kinh tế.

Do vậy, vẫn cần tiếp tục quyết liệt nhóm 8 giải pháp mà chính phủ ban hành.

- Rõ ràng việc tăng giá xăng 31% vừa qua sẽ gây áp lực lớn đối với những nỗ lực kiềm chế tốc độ lạm phát. Ông có nghĩ rằng sẽ đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát như lúc đầu chính phủ đặt ra?

Chúng ta phải đứng trước một sự lựa chọn hết sức khó khăn. Nếu vẫn giữ giá xăng như trước đây thì nhà nước sẽ bù lỗ quá nhiều. Ngoài ra, vấn đề buôn lậu xăng dầu, nhất là ở vùng biên giới phía Tây nam cũng hết sức nhức nhối. Nếu chúng ta vẫn giữ giá xăng dầu như hiện nay thì người dân thậm chí sẽ bỏ cả sản xuất để đi buôn lậu xăng dầu ra biên giới và ra biển.

Còn khi điều chỉnh giá xăng dầu, chỉ số giá tiêu dùng bị ảnh hưởng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, chính phủ đã sử dụng rất nhiều biện pháp quyết liệt như giữ nguyên không tăng giá một số mặt hàng thiết yếu như điện, than, nước sạch... Và còn nhiều biện pháp quyết liệt để kiểm soát giá thị trường. Tôi tin rằng với nhiều biện pháp của chính phủ thì sẽ hạn chế được mức tối đa các tác động do việc tăng giá xăng dầu mang lại.

Sẽ kiểm toán chặt chẽ DN nhà nước kinh doanh xăng dầu

- Trong cuộc họp báo công bố tăng giá xăng, Bộ trưởng Bộ Tài chính có nói rằng Chính phủ đã tính đến các liệu pháp khác để bình ổn thị trường. Tuy nhiên, những ngày gần đây sau khi giá xăng tăng, thị trường đã có nhiều biến động. Cách thức điều hành của Chính phủ trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Quan điểm của Chính phủ vẫn là kiểm soát chặt chẽ thị trường, xem xét mặt bằng giá cả chung của tất cả các mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng có thể ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân như giá cước vận tải, giá lương thực, thực phẩm, các giá dịch vụ khác, giá vật liệu xây dựng... Nếu chúng ta không có sự kiểm soát quyết liệt đối với các mặt hàng này, chúng có thể gây ra những tác động lớn đến mặt bằng giá của các hàng hoá khác, dẫn đến tăng chỉ số lạm phát.

Điều quan trọng khác là Chính phủ sẽ phải kiểm soát kinh doanh của các công ty nhà nước. Khi tăng giá một số mặt hàng thì phải kiểm toán chặt chẽ các công ty nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu.

Hiện nay, lĩnh vực xăng dầu vẫn là lĩnh vực độc quyền thuộc nhà nước. Vì vậy, khi bàn tới việc tăng giá xăng dầu thì Chính phủ đồng thời phải kiểm toán chặt chẽ các công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực này. Cần xem xét kỹ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các Tổng công ty xăng dầu, để biết họ lỗ, lãi cụ thể thế nào, từ đó có hướng điều chỉnh giá.

Bên cạnh đó, đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước cũng cần được tăng cường kiểm toán để xem xét thực sự việc kinh doanh của họ thế nào, từ đó có chính sách giá hợp lý cho từng tập đoàn, tổng công ty.

- Từ nay đến cuối năm, điều mà Chính phủ quan tâm nhất là gì, thưa ông?

Ưu tiên hàng đầu là tiếp tục kiềm chế lạm phát. Vừa qua, Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị nhóm 28 giải pháp để khẳng định tiếp tục thực hiện nhóm 8 giải pháp đã được ban hành để đảm bảo kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Bên cạnh đó, vấn đề an sinh xã hội cũng cần được quan tâm đầy đủ.

Hiện nay, giá cả leo thang, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng trên 27%, đã tác động rất lớn đến lượng dân cư có thu nhập thấp đặc biệt là người làm công ăn lương ở thành thị và người dân ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Cho nên an sinh xã hội phải được ưu tiên thực hiện để đảm bảo đời sống cho người dân.

- Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã từng thừa nhận là trong điều hành vừa rồi có những bối rối, lúng túng nhất định. Điều này sẽ được Chính phủ rút kinh nghiệm như thế nào?

Đúng như vậy. Chẳng hạn như hồi đầu năm chúng ta có lúng túng trong việc xử lý thị trường chứng khoán, mối liên hệ giữa thị trường chứng khoán và Ngân hàng dường như có sự mâu thuẫn, từ đó có sự tác động qua lại gây ảnh hưởng không tốt tới thị trường, gây mất lòng tin của nhà đầu tư.

Cho nên, khi điều hành, Chính phủ phải nhất quán, kiên quyết thực hiện 8 giải pháp đã ban hành và có sự chỉ đạo thống nhất, từ đó tạo ra lòng tin của người dân đối với chính phủ, với nền kinh tế và khả năng ổn định của nền kinh tế.

Không chủ trương cắt giảm đầu tư từ ngân sách

- Trở lại với việc cắt giảm đầu tư công, một giải pháp được coi là then chốt trong kiềm chế lạm phát. Nhiều ý kiến cho rằng tác động của cắt giảm đầu tư công đối với kiềm chế lạm phát chưa thể hiện rõ rệt. Báo cáo kiểm tra của Bộ Kế hoạch Đầu tư công bố tuần trước cho thấy, nguồn vốn thực sự cắt giảm từ ngân sách chỉ là 16 nghìn tỷ đồng trong khi tổng vốn đầu tư lên tới gần 100 nghìn tỷ?

Trước hết, phải khẳng định chủ trương của chính phủ là không cắt giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước bởi vì chúng ta đầu tư từ ngân sách rất ít. Dự định đầu tư là gần 100 ngàn tỷ đồng, nhưng khi chỉ số giá tăng gần 20% thì khối lượng thực tế giảm đi nên chính phủ không chủ trương giảm vốn đầu tư từ ngân sách mà chỉ sắp xếp lại, lựa chọn công trình để đầu tư cho hiệu quả hơn.

Thời gian vừa qua, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách chủ yếu tập trung cho cơ sở hạ tầng, giao thông, vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó là đầu tư cho giáo dục, y tế... Những lĩnh vực ấy nếu chúng ta cắt giảm sẽ ảnh hưởng ngay đến an sinh xã hội, đời sống của người dân nghèo. Do đó, chính phủ không chủ trương cắt giảm đầu tư từ ngân sách, mà chỉ sắp xếp, bố trí lại cho hợp lý hơn.

Còn đầu tư trái phiếu thì chính phủ đã giảm đi 10.000 tỷ đồng từ 37.000 tỷ xuống còn 27.000 tỷ. Nghĩa là đầu tư vào trái phiếu chính phủ còn lớn hơn đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, giao thông.

Đối với khu vực DNNN, nguồn vốn cắt giảm là 29.000 tỷ đồng dựa trên cơ sở hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp. Vừa qua, các DNNN đã đầu tư khá ồ ạt vào các khu công nghiệp hoặc tham gia nhiều vào một số cơ sở hạ tầng lớn. Thực tế này đòi hỏi phải xem xét năng lực thực sự của doanh nghiệp và khả năng đầu tư thế nào cho hợp lý.

- Theo kết quả kiểm tra của Bộ KHĐT, 72% các dự án cắt giảm của các địa phương đều là dự án mới. Vì vậy, có những ý kiến đặt vấn đề loại dự án nào đang được cắt? Có đúng là đối tượng của Quyết định 390 của Thủ tướng hay là các dự án mới đều đang ở dạng dự kiến đầu tư?

Không phải. Đấy là các dự án thuộc đối tượng 390. Các địa phương đã vận dụng đúng các qui định trong nghị định 390, đó là ngừng triển khai các dự án chưa đủ điều kiện hoặc các dự án chưa cần thiết. Chúng ta ngừng lại chủ yếu các dự án mới là đúng, ngừng các dự án chuẩn bị triển khai để dồn tuyến, dồn vốn cho các dự án đang thực hiện.

Nếu tung vốn ra trong điều kiện giá cả thị trường đang tăng, giá nguyên vật liệu cũng tăng như thế này, nhân công đang cao thì không đủ vốn để tiến hành xây dựng cả công trình vì vậy phải co lại. Co ở những chỗ cần co, giảm, giãn ở những chỗ cần giảm, giãn.

- Trước khi các đoàn của Bộ KHĐT đi về các địa phương, có nhiều chuyên gia đã cảnh báo rằng TƯ cần mạnh tay cắt giảm chỉ tiêu đầu tư công khi phân bổ ngân sách, thay vì chờ dưới địa phương gửi lên. Tại sao chúng ta không làm như vậy, thưa ông?

Không, chúng ta đã thực hiện phân cấp trong đầu tư, cho nên việc này phải để địa phương thực hiện. Tự họ với khoản tiền như vậy, sắp xếp lựa chọn công trình để tiến hành thi công. Tập thể HĐND tự sắp xếp vốn và dự án.

Nếu định ra một con số cứng mà không tính tới thực tiễn khách quan của từng địa phương, sẽ có nguy cơ triệt tiêu tăng trưởng. Mỗi địa phương khác nhau có đặc thù, thực tiễn khác nhau và chúng ta phải coi trọng thực tiễn đó.

- Dự án Bảo tàng Hà Nội trị giá 2.300 tỷ đồng thuộc diện các dự án cần phải đình hoãn theo QĐ390 của Thủ tướng nhưng lại là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long nên vẫn triển khai. Quan điểm của cá nhân ông?

Tôi cũng có nói Hà Nội cần xem xét lại chương trình đó, tuy nhiên, quyết định thế nào là tuỳ ở Hà Nội. Quan điểm của tôi là không đồng tình việc khởi công xây dựng công trình đó. 
 

Nếu Hà Nội thấy đó là công trình cần thiết cho kỷ niệm 1000 năm thì quyền quyết định thuộc HĐND TP. Hà Nội. Nhưng có một điểm cần chú ý khi kỷ niệm 1000 năm thì chúng ta nên tổ chức kỷ niệm những di tích liên quan đến 1000 năm Thăng Long hơn là một công trình tập hợp mẫu vật kỷ niệm, mà chúng tôi không rõ có thể tiến hành kịp hay không.

Đầu tư của Tập đoàn NN, Bộ KHĐT chỉ có quyền kiểm tra

- Việc các tập đoàn tuyên bố cắt giảm tới 29.000 tỷ đồng là rất đáng mừng nhưng con số cắt giảm lớn và dễ dàng như vậy trong một thời gian ngắn khiến dư luận băn khoăn: Phải chăng việc cắt giảm này mới chỉ là cắt giảm trên giấy, cắt tên dự án dự định đầu tư chứ không phải những dự án đã bố trí vốn. Chỉ khi nào cắt giảm những dự án đã được phê duyệt, được bố trí vốn mới có ý nghĩa thực sự?

Không phải như vậy. Thực tế Vinashin đã cắt giảm thực tế là 6.000 tỷ đồng, công ty dầu khí VN cũng cắt giảm 6.000 tỷ đồng. Thậm chí, họ còn nói với chúng tôi là nếu nhà nước không bắt họ cắt giảm thì họ cũng cắt giảm vì đó là dự án đầu tư sản xuất kinh doanh mà họ đang chịu lãi suất ngân hàng lớn cho nên họ phải cân nhắc đến chuyện cắt giảm và đầu tư đảm bảo hiệu quả.

- Nhưng rõ ràng, việc này cũng đặt ra dấu hỏi lớn về quy trình ra quyết định đầu tư của các tập đoàn Nhà nước dường như hết sức dễ dãi. Đối với các tập đoàn nước ngoài lớn như Intel, khi quyết định đầu tư 1 tỷ USD vào VN, họ cũng phải cân nhắc 10 năm. Nhưng các tập đoàn của chúng ta có thể quyết định đầu tư hàng nghìn tỷ vào một dự án nào đó một cách hết sức nhanh chóng, dễ dàng.

Hiện nay chúng ta đã phân cấp và đầu tư hay cắt giảm đầu tư của một tập đoàn là do Hội đồng quản trị của tập đoàn đó quyết định. Trách nhiệm thuộc về HĐQT của từng tập đoàn.

- Ngân sách nhà nước thì phân bổ rồi, còn đầu tư của DNNN thì lại thuộc về Hội đồng quản trị của tập đoàn. Vậy, trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ở đâu trong qui trình này?

Bộ Kế hoạch & Đầu tư có trách nhiệm chính là kiểm tra thôi. Và Bộ phải tăng cường công tác kiểm tra đến từng địa phương. Còn quyền tự quyết là thuộc địa phương và HĐQT của các tập đoàn.

- Sau 11 đoàn kiểm tra này thì Bộ có kế hoạch đi kiểm tra tiếp các dự án đầu tư ở địa phương không, thưa ông?

Chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra và đây là công tác thường xuyên của Bộ KH&ĐT. Và chúng tôi sẽ tiếp tục duy trì hoạt động của 11 đoàn kiểm tra này
Nguồn: Vietnamnet