Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin mới

Tháng 7/2008

06/08/2010 - 126 Lượt xem

TỔNG HỢP TIN KINH TẾ

I. Lạm phát và những tác động tới tình hình kinh tế - xã hội

Theo số liệu công bố của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 tăng 1.13% thấp nhấp từ đầu năm. Tuy tốc độ tăng giá đã chững lại nhưng hầu hết những mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống đều đứng ở mức cao, nền kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu tích cực song chưa thể ổn định.

Bảng 1: Tỷ lệ lạm phát qua các tháng

Tháng

1

2

3

4

5

6

7

Tổng

Tỷ lệ lạm phát (%)

2.38

3.56

2.99

2.2

3.91

2.14

1.13

18,31

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Theo đánh giá, lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp của nhiều yếu tố lạm phát như: lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng lạm phát những tháng cuối năm vẫn tăng cao, giá cả nhiều mặt hàng vẫn biến động và thị trường còn tiền ẩn nhiều yếu tố bất ổn và khó lường. Giá xăng dầu, sắt thép, lương thực thế giới đang diễn biến bất thường và có nguy cơ tăng cao. Điều này sẽ tác động không nhỏ tới tỷ lệ lạm phát ở trong nước.


Việc lạm phát tăng cao trong thời gian qua đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế và xã hội, gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Khó khăn thứ nhất là nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất đang tăng quá cao, sức mua giảm. Do vậy các doanh nghiệp phải xem xét lại nghiêm túc cách chi tiêu. Nhiều doanh
nghiệp đã đưa ra những dự án mà họ đã chuẩn bị rất kỹ, bây giờ phải dừng lại. Nhiều dự án đang đầu tư thì giờ phải tìm cách bán đi. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp đã tính tới phương án cắt giảm lao động, tái cơ cấu, mà trong một số trường hợp có thể hiểu là buộc phải đóng cửa hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, hoặc kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, việc lạm phát tăng cao không chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc sống người dân. Mà còn gây ra sự đình trệ về hoạt động kinh tế và tạo ra những bất ổn về mặt xã hội.

1. Tác động từ việc lãi suất tăng quá cao

Lãi suất huy động và cho vay trên thị trường liên tục tăng cao trong thời gian qua có tác dụng hút tiền từ lưu thông về ngân hàng đồng thời góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát. Các biện pháp tài chính tiền tệ của Chính phủ như: cắt giảm chi tiêu công, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế tăng trưởng tín dụng. Đặc biệt là sự khôi phục tác dụng của lãi suất cơ bản, nâng lãi suất cơ bản lên mức hiện nay là 14% được coi là tín hiệu tốt để hút tiền từ lưu thông và hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng.

Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, khi lạm phát đã bước đầu được kiềm chế thì cần tính đến chuyện giảm lãi suất nếu không muốn kinh tế rơi vào trì trệ sau thời kỳ lạm phát. Lãi suất tăng cao là một khó khăn lớn cho doanh nghiệp. Thực tế, các Ngân hàng Thương mại (NHTM) và các nhà làm chính sách biết rất rõ điều này nhưng đó là biện pháp cần thiết trong ngắn hạn để kiềm chế lạm phát. Khi lạm phát được kiểm soát ở mức độ nhất định, tất yếu phải điều chỉnh lãi suất và các công cụ khác cho phù hợp. Yêu cầu lớn nhất trong những tháng cuối năm là tín dụng và lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần được điều hành hợp lý để vừa kiểm soát được lạm phát vừa tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. cần điều hành lãi suất theo hướng ổn định và giảm dần khi lạm phát được kiềm chế. Tăng lãi suất là giảm cung tiền nhưng cung tiền đã giảm đến mức thấp và mà lãi suất vẫn tiếp tục tăng thì tăng lãi suất lúc này sẽ có tác dụng ngược lại.

Lãi suất tăng cao khiến chi phí đầu vào của các doanh nghiệp tăng theo, đẩy giá bán sản phẩm tăng lên, làm ảnh hưởng đến số đông người có thu nhập thấp nhưng không hạn chế tiêu dùng của người có thu nhập cao. Trong khi đó, doanh nghiệp Việt Nam vốn có quy mô nhỏ và yếu về tài chính, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy, lãi suất tăng cao, điều kiện vay khó khăn khiến cho doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng để sản xuất mà đây lại chính là nguồn cung hàng hóa lớn cho xã hội. Hơn nữa, Lãi suất tăng cao làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi phí vay mượn, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, dẫn đến đình trệ và suy thoái, thất nghiệp và phá sản. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế xấu hơn, vĩ mô tiếp tục bất ổn, đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Ngoài ra, mức lãi suất cho vay ở đầu vào sẽ được người vay tự động chuyển vào giá cả ở đầu ra làm tăng mức giá chung.

Theo ý kiến của các chuyên gia, cần điều hành lãi suất theo hướng ổn định và giảm dần khi lạm phát được kiềm chế. Tăng lãi suất là giảm cung tiền nhưng cung tiền đã giảm đến mức thấp và mà lãi suất vẫn tiếp tục tăng thì tăng lãi suất lúc này sẽ có tác dụng ngược lại.

2. Tác động từ việc tăng giá xăng dầu

Theo Quyết định số 57-2008/QĐ-BTC, do Bộ Tài chính ban hành, giá xăng dầu bán lẻ các loại đồng loạt tăng mạnh, từ 2.000 - 6.100 đồng/lít/loại. Nguyên nhân trực tiếp nhất là do giá dầu trên thế giới liên tục tăng cao. Doanh nghiệp nhập khẩu lỗ, ngân sách Nhà nước không đủ sức tiếp tục bù lỗ. Nếu tiếp tục kìm giá bán lẻ, ngân sách Nhà nước sẽ gặp khó khăn do toàn bộ nguồn tăng thu từ dầu thô (khoảng 40.000 tỷ đồng) đã được dốc ra để bù lỗ, nguồn vốn để thực hiện an sinh xã hội sẽ không còn. Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu xăng dầu sẽ tiếp diễn do giá xăng của Việt Nam thấp hơn so với một số nước trong khu vực.

Việc tăng giá xăng dầu lần này là một việc làm tất yếu, và có thể giải thích được. Tuy nhiên, phải có một lộ trình, có nguyên tắc, tránh làm theo kiểu giật cục. Các chuyên gia cũng cho rằng, đây là một mức tăng cao so với khả năng chi trả và mặt bằng thu nhập của đại bộ phận người dân. Trong bối cảnh hiện nay, đối với mặt hàng tác động lên hàng chục triệu người như xăng dầu, việc điều chỉnh cần hết sức thận trọng. Việc tăng giá sẽ tốt hơn nếu thực hiện trong bối cảnh lạm phát đã được kiềm chế. Rất tiếc, tại thời điểm này, lạm phát chưa được kiềm chế, dù có những dấu hiệu tốt lên về chỉ số kinh tế vĩ mô, có những chuyển biến tịch cực, nhưng chưa thật vững chắc, rõ ràng. Tuy nhiên, "trì hoãn như thế nào thì thời điểm tăng giá cũng phải đến, không thể để quá lâu, bởi việc sử dụng các biện pháp hành chính, phi thị trường để "đông giá" không thể kéo dài. Càng kéo dài, đến lúc phải buông ra tác động càng sâu đậm".

Xăng, dầu tăng giá gần như ngay lập tức đã gây ra những hiệu ứng liên quan. Chứng khoán cả hai sàn cùng đồng loạt giảm mạnh. Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đột ngột nóng lên do tâm lý mua tài sản dự trữ tăng cao... Một số nhà đầu tư đã tỏ ra lo lắng về quyết định này, cho rằng tình hình sẽ xấu trong trước mắt và báo hiệu một xu thế giảm sâu của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đó chỉ là những tác động trước mắt. Về lâu dài, tăng giá xăng hay một vài mặt hàng khác không phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến mức lạm phát, vì yếu tố tiền tệ mới là tác nhân chính quyết định lên bài toán lạm phát của Việt Nam. Có thể thấy từ trước đến nay việc tăng giá xăng dầu vẫn xảy ra trong các năm trước cùng với sự leo thang của giá dầu thế giới, tuy nhiên trong những năm trước đó, lạm phát của Việt Nam cũng không hề cao. Do vậy có thể thấy xu thế của lạm phát trong dài hạn dường như không bị ảnh hưởng bởi việc tăng giá xăng mà chỉ ảnh hưởng trong ngắn hạn. Các tác động nhanh và tức thời trong ngắn hạn này có thể được khuếch đại chủ yếu qua kênh tâm lý.

Về tác động của việc tăng giá xăng dầu tới chỉ số CPI, theo tính toán của Bộ Tài Chính chỉ số giá sẽ bị tác động trực tiếp từ giá xămg dầu khoảng 0,5 - 0,7%. Tuy nhiên những tác động gián tiếp có thể đẩy mức này lên cao hơn. Tuy nhiên, Chính phủ vẫn quyết tâm thực hiện chiến lược kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, trong thời gian tới Chính phủ sẽ thực hiện một số biện pháp quyết liệt hơn như: Cắt giảm chi phí, kiểm soát giá đầu vào của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, tránh các mặt hàng khác lợi dụng tình hình “té nước theo mưa”. Đối với các mặt hàng Nhà nước quản lý giá như điện, nước sạch, xe bus… vẫn duy trì chính sách ổn định giá bán từ nay đến hết tháng 12, kêu gọi người dân tiết kiệm nhiên liệu… Theo tính toán, lạm phát sẽ dần ổn định từ tháng 9 và các tháng tiếp theo sẽ thấp trở lại ở mức dưới 1-1,5%/tháng đến cuối năm. Do vậy, có thể hy vọng đến cuối năm, lạm phát vẫn sẽ được kiềm chế ở mức dưới 30% so với đầu cùng kỳ năm trước.

Giá xăng dầu tăng cao sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến các hoạt động sản xuất – kinh doanh của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp như: Vận tải, dệt may, đánh bắt thủy sản… sẽ là “nạn nhân” của đợt tăng giá. Theo đánh giá, việc tăng giá nhiên liệu sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tiêu dùng, đặc biệt với các ngành đang siết chặt chi tiêu và những ngành mà chi phí xăng dầu là một phần của chi phí sản xuất. Những nhóm ngành này trong thời gian tới sẽ phải nỗ lực rất nhiều để có thể đương đầu với chi phí tăng cao. Tuy nhiên, nếu chỉ một mình doanh nghiệp thì sẽ rất khó khăn và khó có thể bù đắp được các thua lỗ do tác động của giá xắng dầu tăng cao. Chính phủ cũng như chính quyền địa phương nên có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Chính phủ cũng cần phải xem xét một cách thận trọng, thấu đáo, không thể để doanh nghiệp tự gánh vác một mình. Tuy nhiên, điều này cần phải được thực hiện theo một mức độ nhất định, có trọng tâm trọng điểm và có sự giúp đỡ đối với những doanh nghiệp chịu tác động rõ, mạnh nhất.

Ở một khía cạnh khác, việc tăng giá xăng dầu tăng giá với mức tăng khá mạnh tới 31%, trong bối cảnh Chính phủ vừa tuyên bố giữ giá các mặt hàng thiết yếu đến hết 2008 lại một lần nữa, đặt ra thách thức đối với các nhà điều hành làm sao giữ được lòng tin của người dân và doanh nghiệp, thuyết phục họ cùng chia sẻ, hợp lực với Chính phủ vượt qua khó khăn. Vấn đề đặt ra sau quyết định điều chỉnh giá xăng dầu là, có hay không một mặt bằng giá mới với các mặt hàng và liệu nguồn ngân sách tiết kiệm được giảm nhẹ gánh nặng bù lỗ xăng dầu sẽ được phục vụ cho an sinh xã hội ra sao?

Theo đánh giá của các chuyên gia, "lúc này, vấn đề tâm lý, niềm tin trở thành một nhân tố quyết định đến việc hình thành giá cả hàng hóa và mục tiêu chống lạm phát của Chính phủ". "Chính phủ nên có những lí giải minh bạch về bước đi vừa rồi của mình để nhằm "cứu vãn" và "củng cố" niềm tin của người dân, doanh nghiệp và người tiêu dùng, vốn bị những chính sách thiếu nhất quán của Chính phủ trong thời gian gần đây làm xói mòn". Chính phủ cần làm rõ, việc tăng giá xăng 31% như vậy sẽ tác động như thế nào đến giá thành vận tải, ảnh hưởng ra sao đến giá lương thực thực phẩm và các mặt hàng khác? Nêu biểu tính toán, cung cấp con số và giải thích cho người dân, để họ có lòng tin và có cơ sở soi chiếu vào doanh nghiệp, không để họ nhân cớ tăng giá xăng dầu mà "tát nước theo mưa". Minh bạch thông tin là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để giữ lòng tin. Nhà nước cũng cần minh bạch các chính sách và cơ chế hỗ trợ cho người nghèo, người yếu thế... để họ vượt qua khó khăn. Việc hỗ trợ người dân gặp khó khăn là chủ trương của Nhà nước và Nhà nước dành túi tiền cho việc đó. Vấn đề còn lại là cơ chế thực thi ở các cấp địa phương, để người dân tiếp cận dễ dàng hơn. Và khi đó, người dân, doanh nghiệp sẽ cảm thông và chấp nhận chịu đựng khó khăn, hợp lực cùng Chính phủ.

Trong ngắn hạn, việc tăng giá này có thể sẽ tác động nhất định đến thị trường, song với góc nhìn dài hạn đây chưa hẳn đã là tác động tiêu cực.

Thứ nhất, mức tăng hơn 30% gần như sẽ giúp ngân sách giảm gánh nặng trợ giá và được phân bổ vào những việc cần thiết và có ích hơn, nhất là vấn đề an sinh xã hội.

Thứ hai, giá tăng theo sát giá thế giới sẽ theo quy luật kinh tế thị trường. Kết quả lớn nhất thu được là các hành vi kinh tế của doanh nghiệp sẽ được điều chỉnh theo hướng tiết kiệm và có cân nhắc để sử dụng hiệu quả hơn. Tính thị trường của việc này được thể hiện ở chỗ lượng tiêu thụ xăng dầu trong nước được điều chỉnh để phù hợp hơn với tình hình giá xăng dầu thế giới. Thực tế cho thấy, thời gian qua giá xăng dầu tăng cao gần như không làm ảnh hưởng đến lượng tiêu thụ ở các nước đang có chính sách trợ giá xăng dầu.

Thứ ba, thời gian qua mức chênh lệch giữa giá xăng dầu tại Việt Nam và thế giới đã cao rất đáng kể, gây áp lực thị trường khá lớn. Lượng tiêu thụ tại Việt Nam theo thống kê đã tăng hơn so với năm trước mặc dù nền kinh tế đang có dấu hiệu chững lại cho thấy việc sử dụng xăng dầu chưa thực sự hiệu quả và còn nhiều lãng phí. Việc điều chỉnh để cơ cấu lại hành vi sử dụng xăng dầu là cần thiết để phù hợp với tình hình khó khăn chung của thế giới.

Thứ tư, về mặt tiêu dùng khi trợ cấp xăng dầu, người hưởng lợi chủ yếu là những người có thu nhập cao vì nhóm người này sử dụng nhiều ôtô và những phương tiện tiêu tốn năng lượng hơn so với những người nghèo.

Thứ năm, sẽ loại bỏ được việc xuất lậu xăng qua các nước sát biên giới khi mức giá ở mức cân bằng và không tạo chênh lệch đáng kể.

Để có thể đánh giá về tác động của việc cắt bỏ trợ giá, các chuyên gia kinh tế đã chỉ ra hai mặt ảnh hưởng: Tiêu cực trong ngắn hạn nhưng tích cực trong trung và dài hạn. Người tiêu dùng sẽ phải chịu tác động bất lợi và buộc phải sử dụng nhiên liệu hiệu quả và tiết kiệm hơn để đem lại kết quả tích cực trong dài hạn. Lạm phát sẽ tăng nhanh hơn và GDP sẽ giảm trong năm 2008 – 2009, nhưng yếu tố số lượng loại bỏ yếu tố giá cả cho phép ngân sách chính phủ được kiểm soát hiệu quả và chất lượng hơn. Tiết kiệm ngân sách giúp đầu tư công hiệu quả hơn và từ đó cải thiện chất lượng cuộc sống. Quyết định này được xem xét như một xu hướng tốt cho năm 2008, do hầu hết mọi điều chỉnh được thực thi trong năm nay – năm chuyển giao gia nhập WTO – sẽ giúp chính phủ kiểm soát lạm phát và tốc độ tăng trưởng tốt hơn thông qua việc tiết kiệm chi phí và tăng năng suất.

3. Lạm phát tăng cao làm giảm chất lượng cuộc sống, làm cho nguy cơ tái nghèo tăng cao.

Chuẩn nghèo hiện nay của nước ta được ban hành từ năm 2005 (theo QĐ số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Chuẩn nghèo này được tính toán dựa vào nhu cầu chi tiêu cơ bản của lương thực thực phẩm (nhu cầu ăn hàng ngày) và nhu cầu chi tiêu phi lương thực thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại, giao tiếp xã hội). Trong đó, chi cho nhu cầu ăn khoảng 60% tổng chi tiêu và 40% dành cho phi lương thực, thực phẩm. Nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhanh, năm 2007 là 12,63%, 6 tháng đầu năm 2008 là 18,44%, làm giá trị thực của chuẩn nghèo giảm xuống. Trước thực tế này, để bảo đảm đúng giá trị thực của chuẩn nghèo như khi đã ban hành, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất điều chỉnh chuẩn nghèo theo phương án: Chuẩn nghèo được cập nhật theo chỉ số CPI năm 2007 (12,63%) và năm 2008 (dự kiến là 27,5%) khi xây dựng đã ước tính chỉ số năm 2006 là 6,5%. Theo đó chuẩn nghèo cụ thể như sau: Khu vực nông thôn: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 300.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Đối với khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân từ 390.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. Như vậy, dự báo tỷ lệ hộ nghèo cả nước đến cuối năm 2008 khoảng 16,5-17,5%, tương ứng với 3,2-3,4 triệu hộ.

4. Tác động về xã hội do sự chênh lệch về thu nhập

Chênh lệch về thu nhập ở Việt Nam đang ngày càng lớn thêm, hay nói cách khác, bất bình đẳng xã hội đang gia tăng và tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn nghiêm trọng. Thu nhập thực tế trên đầu người tăng khoảng 7%/năm. Khoảng 30 triệu người, tương đương một phần ba dân số, đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Ngân hàng Thế giới dự đoán Việt Nam sẽ đạt được phần lớn trong số 8 mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó mục tiêu đầu tiên là triệt để loại trừ tình trạng bần cùng và thiếu ăn.

Việt Nam có thêm nhiều người giàu, nhưng người nghèo lại cũng nghèo đi vì bị gạt ra ngoài rìa công cuộc phát triển kinh tế. UNDP nhận định, người nghèo ở Việt Nam hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế chỉ bằng 76,6% so với mức bình quân của xã hội, trong khi người giàu hưởng lợi tới 115%. Năm 1990, thu nhập của những hộ nghèo nhất chiếm 8% tổng thu nhập quốc dân. Năm 2006, tỷ lệ này sụt xuống chỉ còn 5,6%. Ngược lại, năm 1990, thu nhập của những hộ khá giả nhất chiếm 42,7% tổng thu nhập quốc dân thì đến năm 2006, tỷ lệ này đã chiếm gần nửa, lên 49,3%. Theo Báo cáo Phát triển Con người do UNDP công bố mới đây, VN xếp hạng 105 trên 177 nước về chỉ số phát triển con người (HDI). Hệ số Gini – số đo mức độ bất bình đẳng về thu nhập, phản ánh chênh lệch giàu nghèo trong một quốc gia – tăng từ 0,345 vào năm 1990 lên 0,432 vào năm 2006.

Theo đánh giá, những người nghèo nhất xã hội là những người bị gạt ra ngoài công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Họ là người ở các vùng nông thôn, vùng miền núi hẻo lánh, nhất là người thuộc các nhóm dân tộc thiểu số. Nói cách khác, đang tồn tại nhiều mối tương quan bất bình đẳng về thu nhập: giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng nông thôn với nhau, giữa người Kinh và người các dân tộc khác. Trong đó, bất bình đẳng giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số là khó xóa bỏ nhất. Năm 2004, có 14% người Kinh thuộc diện nghèo đói. Con số này ở cộng đồng dân tộc thiểu số là trên 60%. Chỉ có 4% người Kinh sống dưới mức nhu cầu dinh dưỡng cơ bản, trong khi đó, có tới hơn 30% người dân tộc không được cung cấp đủ lương thực ở mức tối thiểu. Thống kê cho thấy, trong 10 năm (1994-2004), tỷ lệ người nghèo đói có xuất thân từ các nhóm dân tộc thiểu số đã tăng lên gần gấp đôi. Hiện nay, người dân tộc chiếm 14% dân số, và chiếm tới 39% tổng số người nghèo trong cả nước.

Có những nguyên nhân dễ nhận thấy, giải thích cho sự bất bình đẳng, chẳng hạn như việc năng suất, tốc độ phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp luôn thấp hơn trong công nghiệp và dịch vụ. Từ đó dẫn đến hệ quả thu nhập của cư dân nông thôn và miền núi thấp hơn cư dân thành phố. Ngoài ra là khoảng cách về tri thức, kỹ năng chuyên môn ngày càng lớn giữa người được tiếp cận với giáo dục tốt và người không có cơ hội đó.

Thứ nhất, lý do địa lý. Người thiểu số chủ yếu quần cư ở vùng nông thôn hoặc miền núi. Nguồn thu nhập của họ phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp, đặc biệt vào tài nguyên rừng. Trong khi đó, sở hữu đất rừng của họ bị hạn chế, và phần lớn đất đai cũng đã sạch bóng cây rừng.

Thứ hai, lý do xã hội. Cho tới gần đây, người dân tộc thiểu số vẫn không được tiếp cận rộng rãi với y tế và giáo dục cơ bản. Ở tất cả các nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ em dân tộc đến trường đều thấp hơn nhiều so với trẻ em dân tộc Kinh. Chênh lệch này còn rõ ràng hơn nữa ở trẻ em gái. Không đầy 30% người trưởng thành ở các cộng đồng dân tộc thiểu số tốt nghiệp cấp hai, so với con số 50% ở người Kinh. Bất bình đẳng thu nhập gia tăng có lẽ là điều khó tránh khỏi ở một nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát, nó sẽ tạo ra bất ổn xã hội.

II. Xuất - nhập khẩu

Có thể nói từ đầu năm đến nay, đây là tháng đầu tiên kim ngạch XK đạt mức tăng trưởng cao nhất với 47% so với cùng kỳ, đồng thời đây cũng là tháng đầu tiên nhập siêu đã hạ xuống thấp nhất ở mức 800 triệu USD.

Tại Hội nghị giao ban trực tuyến về bàn giải pháp thực hiện nhiệm vụ 6 tháng cuối năm do Bộ Công Thương tổ chức đầu tháng 7, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đặt ra chỉ tiêu: nhập siêu trung bình 6 tháng cuối năm cố gắng không vượt quá 700 triệu USD/tháng. Đây là một nhiệm vụ không phải dễ dàng trong bối cảnh nhập siêu của Việt Nam đang ở tình trạng báo động.

Tuy nhiên, với kết quả kim ngạch NK tháng 7 đạt 7,05 tỷ USD, chỉ tăng khoảng 1,8% so với tháng trước, nhập siêu hạ xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm đến nay là một điều đáng mừng, bởi mấy tháng đầu năm, tình hình nhập siêu đã luôn trở thành một trong những chỉ số “báo động đỏ” đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhập siêu tháng 7 ở mức 800 triệu USD đã thực sự làm nhiều người ngỡ ngàng. Như vậy tổng nhập siêu 7 tháng đầu năm dừng ở mức 15,24 tỷ USD. Điều quan trọng nhất là qua chỉ số này, việc phấn đấu đưa nhập siêu xuống ở ngưỡng 700 triệu USD/tháng ở mấy tháng cuối năm, cũng như đảm bảo mục tiêu nhập siêu cả năm 2008 ở mức 20 tỷ USD như Chính phủ đã đề ra là có khả năng thực hiện được.

Kết quả nhập siêu giảm, trước hết là do tác động trực tiếp của những chính sách hạn chế quyết liệt NK một số mặt hàng ôtô, linh kiện ôtô, vàng...; những chính sách kiểm soát nguồn ngoại tệ dành cho NK; tiết giảm tiêu dùng và cắt giảm đầu tư cũng tác động đến việc giảm NK của các DN. Ngoài ra, những tháng trước đây, có tình trạng tranh thủ NK để chờ thời điểm tăng giá như hồi tháng 4/2008, thì nay khả năng ấy không còn tiếp diễn.

Xuất khẩu tuy chỉ tăng 0,8% so với tháng trước, nhưng với kim ngạch đạt 6,25 tỷ USD trong tháng 7, tăng tới 47% so với cùng kỳ năm 2007. Đặc biệt đây là lần đầu tiên XK có mức kim ngạch đạt cao nhất từ đầu năm, đồng thời cũng giữ kỷ lục tăng trưởng so với từ trước đến nay. Với đà tăng trưởng như vậy, tổng kim ngạch XK 7 tháng đầu năm đã đạt 36,876 tỉ USD, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm 2007. Đáng chú ý, trong số 4 nhóm mặt hàng XK có mức tăng trên 50% thì sản phẩm đá quí và kim loại quí đã nổi lên và trở thành một “hiện tượng” với mức tăng kỷ lục là 525,8%. Một số mặt hàng khác như: dầu thô đạt 7,8 triệu tấn, giảm 12% về lượng nhưng tăng 52% về kim ngạch; gạo giảm 6,8% về lượng cũng tăng gấp đôi về kim ngạch. Các sản phẩm khác như: nhân điều, chè các loại, than đá, linh kiện máy tính, sản phẩm nhựa, đồ gỗ, dệt may... đều có mức tăng từ 20 đến gần 50% so với cùng kỳ.

Bảng 2: Xuất - nhập khẩu tháng 7/2008

Ước xuất khẩu 7 tháng năm 2008

­Ước tính tháng báo cáo

Cộng dồn từ đầu năm đến tháng báo cáo

Tỷ lệ (%) cộng dồn so

% đóng góp vào mức tăng 7T

Cùng kỳ 2007

% tăng

Trị giá

Trị giá

Trị giá

Tổng trị giá

6250

36876

137.7

37.7

100.0

Khu vực KT trong n­ước

2860

16472

140.1

40.1

46.7

Khu vực có vốn ĐT trc tiếp NN

Kể cả dầu thô

3390

20404

135.8

35.8

53.3

Trừ dầu thô

2250

13603

128.9

28.9

30.2

Ước nhập khẩu 7 tháng năm 2008

­Ước tính tháng báo cáo

Cộng dồn từ đầu năm đến tháng báo cáo

Tỷ lệ (%) cộng dồn so

% đóng góp vào mức tăng 7T

Cùng kỳ 2007

% tăng

Trị giá

Trị giá

Trị giá

Tổng trị giá

7050

51887

156.8

56.8

100.0

Khu vực KT trong nư­ớc

4650

35467

170.4

70.4

78.0

Khu vực có vốn ĐT trực tiếp NN

2400

16420

140.5

40.5

25.2

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch - Đầu tư

Yếu tố tăng giá trên toàn thế giới là một trong những thuận lợi lớn cho XK Việt Nam năm nay. Riêng một số mặt hàng chủ lực như: dầu thô, than đá, gạo, cà phê và cao su đã làm tăng kim ngạch lên thêm 4,5 tỷ USD tương đương 16,7% tăng trưởng XK. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tốc độ tăng trưởng XK cả nước đạt khoảng 20%.

Có thể nói, giá trị kim ngạch XNK của tháng 7 và 7 tháng đầu năm không chỉ giúp Việt Nam khả quan hơn về việc thực hiện các chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2008, mà điều quan trọng nhất trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đều có những diễn biến phức tạp và bất lợi, việc tăng trưởng về XK, đặc biệt là kiềm chế về nhập siêu đã thể hiện được sự điều hành đúng đắn của Chính phủ, sự phối hợp của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp.

Hãng tin Bloomberg của Mỹ nhận định tình trạng nhập siêu của Việt Nam giảm đáng kể trong năm nay nhờ những nỗ lực của chính phủ trong việc kiềm chế kinh tế tăng trưởng quá nóng.Việc giảm tốc độ nhập siêu là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam nhằm kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, các biện pháp khác còn có tăng lãi suất ngân hàng và giảm chi tiêu công. Hãng tin dẫn báo cáo từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng: “Có nhiều dấu hiệu khích lệ cho thấy các chính sách kiểm soát của Chính phủ Việt Nam đang bắt đầu có hiệu lực. Nhập khẩu giảm trong khi tiền đồng đang ổn định”.

Tuy nhiên, để đảm bảo đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu 61,2 tỷ USD, cần tập trung giải quyết một số vấn đề. Thứ nhất, lao động thiếu và nạn cắt điện đột ngột. Trong những tháng vừa qua, tình trạng thiếu điện thường xuyên đã gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp. Tại buổi giao ban trực tuyến do Bộ Công thương tổ chức vào trung tuần tháng 7, DN đều đề cập đến điện, cho thấy sự bức xúc của các DN đã tăng lên đến tột đỉnh. Và điện được coi là yếu tố chính quyết định mục tiêu xuất khẩu 61,2 tỷ USD.

Cùng với điện, vấn đề về vốn và tỷ giá vẫn đang nóng bỏng. Nhiều ý kiến cho biết, quy định về việc hạn chế vay vốn của Ngân hàng Nhà nước đang gây khó khăn cho DN. DN không được phép vay ngoại tệ để thanh toán chi phí trong nước mà phải đi vay bằng tiền đồng VN, trong khi đó lãi suất giữa 2 đồng tiền này rất khác biệt. Theo đó, hạn chế mức tín dụng cho vay của các tổ chức tín dụng không quá 30% làm cho tình trạng vay vốn của các DN càng trở nên căng thẳng. DN đề nghị, cần tăng mức tín dụng này lên 40% hoặc 50% thì mới có thể bớt khó cho DN. Vấn đề cần nới rộng biên độ tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam hơn mức quy định 2% như hiện nay cũng là bức xúc của nhiều hiệp hội để tránh cho các doanh nghiệp xuất khẩu rơi vào tình trạng “một cổ hai tròng”. Bởi thực tế là vay vốn theo Quyết định 09 thì DN chỉ được vay bằng VND với lãi suất hiện rất cao, nhưng ngoại tệ thu về bán cho ngân hàng theo biên độ tỷ giá là 2% - trong khi thực tế giá trên thị trường lại cao hơn. Để giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp xuất khẩu, trước hết các ngân hàng thương mại cần nhanh chóng hạ lãi suất. Các biện pháp thắt chặt tiền tệ của chính phủ cần có cách giải quyết và điều hành linh hoạt, phù hợp với diễn biến của từng giai đoạn cụ thể, tránh tác động tiêu cực đến sản xuất, xuất khẩu.

III. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững

Từ ngày mùng 9–17/07/2008, tại Hà Nội, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã họp hội nghị lần thứ 7. Hội nghị đã thông qua nghị quyết quan trọng: Xây dựng đội ngũ tri thức và nông nghiệp–nông thôn–nông dân. Trong đó nhấn mạnh đến việc hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp–nông thôn–nông dân: Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp–nông thôn–nông dân nước ta đã có những bước phát triển khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp có bước đi khá vững chắc theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả: an ninh lương thực quốc gia được đảm bảo, xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học công nghệ được nâng cao. Song nông nghiệp–nông thôn–nông dân cũng bộc lộ một số yếu kém, khuyết điểm. Nông nghiệp phát triển kém bền vữngo, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tối đa các tiềm năng, nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, chủ yếu là sản xuất nhỏ, phân tán, năng suất chất lượng, giá trị gia tăng của nhiều loại sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Bên cạnh đó, công nghiệp dịch vụ ở nông thôn phát triển chậm, thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn… Do vậy các vấn đề nông nghiệp–nông thôn–nông dân phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là trọng tâm và là nhân tố đảm bảo sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa–hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa–hiện đại hóa đất nước phải hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển; xây dựng nông thôn mới gắn liền với việc xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng và cả nước để giải phóng và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội: là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó có vai trò, chức năng của giai cấp nông dân.

Trong hơn 20 năm đổi mới, thực hiện CNH-HĐH đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách về nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

GS. Vũ Trọng Khải – nguyên hiệu trưởng trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và Phát triển nông thôn II - cho biết, có thể chia thành 2 loại chính sách dựa theo tiêu chí “cởi trói” và “thúc đẩy” để chuyển từ nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân hướng tới dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Những chính sách mang tính “cởi trói” được đánh giá là đi vào cuộc sống một cách “tự nhiên” nhất, nhanh nhất, được thực thi đầy đủ nhất, hiệu quả nhất. Điển hình như: Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ban hành tháng 4/1988 về “đổi mới quản lý nông nghiệp” và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) và các Nghị quyết sau đó của Đảng thừa nhận nền kinh tế thị trường, xóa bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ”, để hàng hóa trong đó có nông sản được tự do buôn bán, không phân biệt chủ thể (quốc doanh hay dân doanh), không giới hạn qui mô và địa giới hành chính.

Những chính sách “thúc đẩy” thì hoàn toàn khác hẳn với chính sách “cởi trói”. Với vai trò thúc đẩy sự phát triển, với chất lượng mới cao hơn, nó phải được hoạch định có căn cứ khoa học và thực tiễn, đòi hỏi nhà hoạch định chính sách không chỉ có lương tâm và lòng dũng cảm mà điều quan trọng hơn là phải có trí tuệ. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các nhà hoạch chính sách còn phải hiểu biết các quy định của WTO và thông lệ quốc tế. Sau nữa là năng lực thực thi chính sách của bộ máy công quyền và đội ngũ công chức. Mặt khác, thực tiễn luôn luôn thay đổi và phát triển, nên chính sách cũng phải thay đổi để thích ứng. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn phải luôn tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao hiểu biết lý luận và kinh nghiệm quốc tế để đổi mới chính sách và bảo đảm tính khả thi, hiệu lực và hiệu quả của chính sách.

Tuy nhiên, GS. Vũ Trọng Khải nhận định, cho đến nay chính sách cho nông thôn vẫn “thiếu và chậm” trong khi nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết ngay.

Nhìn vào thực trạng hoạch định và thực thi chính sách phát triển nông thôn hiện nay, có thể thấy rất nhiều vấn đề nảy sinh. Thứ nhất, hiệu quả việc ban hành và thực thi chính sách chưa được đánh giá độc lập để xác định mức độ đạt mục tiêu đã đề ra, các tác động tiêu cực và nguyên nhân của nó, sự không còn phù hợp của chính sách so với thực tiễn kinh tế - xã hội đang phát triển. Thứ hai, chưa có một chính sách nào được ban hành dựa trên kết quả nghiên cứu của một đề tài khoa học. Mặc dù trong thời gian qua, rất nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ về nông nghiệp, nông thôn, nông dân được thực hiện, nghiệm thu nhưng dường như quá trình ban hành chính sách của bộ máy công quyền và quá trình nghiên cứu khoa học của giới học thuật là “hai đường thẳng song song”. Một số chính sách được ban hành còn mang nặng tính chất xử lý tình huống và bị động. Thứ ba, các nhà hoạch định chính sách cũng ít khi hỏi ý kiến người dân và doanh nghiệp, những người chịu tác động trực tiếp của các chính sách này, và không tính toán khả năng thực thi chính sách của bộ máy công quyền.

Có thể nói, đây là nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất tạo ra "bức tranh" nông thôn hiện nay. Cụ thể là tình trạng nông dân bị mất đất, nhất là đất “thượng đẳng điền, bờ xôi ruộng mật”, để làm khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf, nông dân không có công ăn việc làm, rơi vào cảnh túng quẫn, tạo ra xung đột xã hội nghiêm trọng; Việc xử lý tình thế khi giá lương thực trên thị trường thế giới tăng đột biến bằng lệnh tạm thời dừng xuất khẩu gạo khiến nông dân bị thiệt kép, do bán lúa với giá thấp và mua vật tư nhập khẩu như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu với giá cao. Các công ty kinh doanh lương thực đã lỡ mua gạo dự trữ để xuất khẩu nay phải chịu chi phí lưu kho và trả lãi ngân hàng; Một số vùng quê bị biến thành bãi thải rác công nghiệp khổng lồ của thế giới, thành các làng ung thư, các dòng sông chết do thu hút doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà không tính đến cái giá phải trả cho việc bảo vệ môi trường; Sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa nước ta trên thị trường trong và ngoài nước yếu kém vì tập quán sản xuất manh mún, đất canh tác không ổn, không tích tụ ruộng đất; Gần đây nhất, nhiều nông dân lại bị luật pháp xếp vào “chiếu dưới” so với các nhà đầu tư khi nhà nước chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp thành đất xây dựng đô thị, khu công nghiệp, sân golf. Giá đất nông nghiệp dù có được xác định trên cơ sở thuận mua vừa bán, cũng rất rẻ, không đủ để “tái định cư” theo đúng nghĩa cho người nông dân mất đất nông nghiệp…

Để phần nào giải quyết những tồn tại trên, đã có rất nhiều giải pháp được đưa ra. Trong đó xin được trích dẫn ý kiến của TS. Phạm Duy Nghĩa: "Muốn dân không mất ruộng, phải xem lại chế độ sở hữu áp dụng đối với ruộng đất của nông dân. Muốn dân không chán ruộng, phải xem lại các chính sách tác động tới nông sản nhằm giúp nông dân được lợi. Muốn dân không chán quê, phải xem lại ai được lợi từ chi dùng tài chính công."

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Việt Nam: Số ít người giàu hưởng phần nhiều quyền lợi, 25/07/2008 – Vietnamnet,

Giá xăng tăng và thách thức lòng tin, 22/07/2008 – Vietnamnet

Tăng giá xăng dầu và lạm phát 5 tháng cuối năm, 22/07/2008 – Thời báo Kinh tế Việt Nam

Điều chỉnh chuẩn nghèo theo CPI năm 2008, 18/07/2008 – Thời báo Kinh tế Việt Nam

Kinh tế Việt Nam như người ốm cần kế đúng thuốc, 16/07/2008 – Vnexpress

Đừng để sau lạm phát là đình trệ kinh tế, 16/07/2008 Vietnamnet
Nguồn: VNEP, tháng 7/2008.