
Tin tức
Quản lý các tập đoàn kinh tế (18/08)
06/08/2010 - 29 Lượt xem
Trước khi Luật Doanh nghiệp (2005) có hiệu lực 3 tháng, sau khi tập đoàn kinh tế đầu tiên được thành lập, tôi đã viết 1 bài trên báo Lao Động ngày 3.4.2006 với tựa đề “Có nên thành lập các tập đoàn kinh tế?”.
Để xem phần khó và dễ của vấn đề, xin nhắc lại một vài ý của bài viết trước mà tôi nghĩ vẫn còn nguyên tính thời sự.
Một mặt, không có pháp nhân nào theo luật Việt Nam hiện hành được gọi là tập đoàn kinh tế cả. Tập đoàn không có tư cách pháp nhân, nên việc thành lập tập đoàn kinh tế là việc lạ. Luật Doanh nghiệp (2005) có hiệu lực từ ngày 1.7.2006 có một điều duy nhất nói rất sơ lược và mơ hồ về tập đoàn kinh tế trong Điều 149: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”.
Suốt 2 năm rưỡi qua vẫn chưa có quy định cụ thể nào (khi đó tôi khẳng định “làm sao mà quy định nổi”). Vừa qua có đưa ra dự thảo Nghị định và đã bị các tập đoàn phản ứng rất dữ dội. Đấy là một điều dễ hiểu và đã được cảnh báo ngay từ đầu.
Các tập đoàn được thành lập sau dường như đã ý thức được cái lỗ hổng pháp lý khổng lồ đó nên họ đưa từ “tập đoàn” vào tên gọi của “công ty cổ phần tập đoàn X, Y, Z” và các công ty tư nhân cũng theo gương đó mà đăng ký lại, nên hiện nay không biết có bao nhiêu công ty có chứa tiền tố “tập đoàn” trong tên đăng ký của mình. Dự thảo nghị định muốn cấm việc dùng tiền tố “tập đoàn” này và bị các tập đoàn phản ứng kịch liệt.
Đấy là những hệ quả không lường trước của một chủ trương. Muốn quản lý các thực thể không có tư cách pháp nhân là điều khó tưởng tượng trong bối cảnh muốn hoàn thiện nhà nước pháp quyền.
Mặt khác, “nếu biến các tổng công ty nhà nước thành công ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty con (mà ta thường gọi là công ty mẹ-công ty con) thì sẽ phù hợp với Luật Doanh nghiệp”; “Tập đoàn là một khái niệm bao gồm một nhóm công ty có quan hệ mật thiết về mặt sở hữu, chiến lược, thị trường hay sản phẩm, v.v và chỉ có thế thôi. Và sự phát triển của một tập đoàn theo nghĩa như thế là một sự phát triển tự nhiên, tự thân, chứ không do ai áp đặt, ban phát cho nó cả”.
Nếu hiểu theo nghĩa đó thì việc quản lý cái “công ty mẹ” của tập đoàn kinh tế không phải khó, có thể làm hoàn toàn đúng luật và tôi nghĩ các nhà soạn thảo Nghị định cũng nghĩ như thế. Đấy là mặt dễ của vấn đề. Và Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu có toàn quyền làm những việc đó và không thể vì phản ứng của các đối tượng bị quản lý mà chùn bước.
Nếu không, thì cảnh báo của bài báo trước về việc phải coi chừng sự “lobby” của các doanh nghiệp “đại gia” đến việc ban hành quy định quản lý và các quy định cũng nên tập trung vào các vấn đề thực chất hơn là các vấn đề “hình thức”.
Nếu hiểu đúng như vậy “tập đoàn” chỉ còn là một cái tên không hơn không kém và các “tập đoàn” sinh sau có cái lý của họ khi đưa chữ “tập đoàn” vào trong tên đăng ký của mình cho “oai”. Tôi đã nhắc đến căn bệnh hình thức, thói khoa trương cần dẹp bỏ, song việc đó khó có thể được tiến hành bằng mệnh lệnh mà phải bằng giáo dục, bằng truyền thông, bằng nâng cao dân trí và quan trí và nhất là bằng việc không đưa ra các quy định mập mờ tạo cơ sở cho những căn bệnh đó phát triển. Tuy nhiên cũng có cách “hành chính” rất hữu hiệu là cấm dùng từ “tập đoàn” trong tất cả các tên gọi được đăng ký của tất cả các công ty ở Việt Nam.
Bài báo đó viết “nên chú trọng đến các vấn đề thực chất như cai quản công ty (corporate governance), nâng cao trách nhiệm giải trình, nâng cao tính minh bạch, loại trừ sự mâu thuẫn lợi ích, nâng cao năng lực quản trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải tiến sản phẩm, đổi mới công nghệ v.v... của các công ty, tạo điều kiện cho các công ty cạnh tranh lành mạnh,... tạo cơ sở pháp lý cho việc cai quản tốt hơn, quản trị và điều hành tốt hơn theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, tạo điều kiện cho cổ phần hoá”. Rất tiếc những việc cốt lõi như vậy chưa làm được nhiều.
Nếu xét về tổng nguồn lực xã hội mà các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước sử dụng và các thành tích mà chúng tạo ra, chúng ta không thể không đi đến kết luận về tính kém hiệu quả của chúng.
Muốn có phát triển bền vững, muốn có tăng trưởng kinh tế có chất lượng, muốn phục hồi sự ổn định kinh tế vĩ mô không thể không cải tổ tận gốc rễ các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp nhà nước. Bốn biện pháp cốt lõi trong việc cải tổ này là: thay đổi tư duy về vai trò “chủ đạo” của chúng; thắt chặt ràng buộc ngân sách của chúng (để chúng không chèn ép khu vực có khả năng phát triển lành mạnh là khu vực tư nhân); buộc chúng phải cạnh tranh lành mạnh trên thương trường trong nước và quốc tế; đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn: Lao Động
