Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

DN đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn: Thiếu và yếu (19/08)

06/08/2010 - 30 Lượt xem

Quy mô đầu tư FDI "hạn chế"
 
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH-ĐT), 5 tháng đầu năm 2008 có 324 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài vào ngành nông lâm nghiệp chỉ có 11 dự án. Đáng chú ý, phần lớn các DN đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông lâm nghiệp là các DN vừa và nhỏ, có mức vốn thấp, chủ yếu là các DN có mức vốn dưới 2 triệu USD, thậm chí có một số DN có mức vốn dưới 500.000 USD như Cty TNHH Shin Wall của Hàn Quốc đóng tại huyện Phúc Thọ (thuộc tỉnh Hà Tây cũ), vốn đăng ký kinh doanh chỉ có 160.000 USD. Các DN đầu tư từ 5 triệu USD trở lên không nhiều, chỉ chiếm khoảng 18% tổng số DN. Trong đó, DN liên doanh có mức vốn bình quân gấp 1,81 lần so với DN 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Vốn thực tế hoạt động của các DN đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp còn rất thấp so với vốn đăng ký kinh doanh. Ông Lai Chang An – Giám đốc Cty TNHH Trương Thái Việt Nam - Bảo Lâm – Lâm Đồng (nhà đầu tư của Đài Loan) cho biết, DN của ông năm 2004 đăng ký kinh doanh với mức vốn là 1 triệu USD nhưng đến hết năm 2006 mới chỉ đầu tư được 570 ngàn USD. Còn Ông Huang Cai Fang – Giám đốc Cty TNHH Nông súc Trực Điền (nhà đầu tư của Hàn Quốc) cho biết, Cty của ông đăng ký kinh doanh từ năm 2000 với tổng vốn đăng ký là 8.08 tỷ đồng. Năm 2002, DN bắt đầu thực hiện đầu tư vốn và đến năm 2005 mới đầu tư được khoảng 6 tỷ đồng.

Nguyên nhân của tình trạng trên chính là do công tác tổ chức triển khai chậm. Nhiều DN đang trong giai đoạn đầu tư thăm dò thị trường tiêu thụ cũng như lựa chọn công nghệ thích hợp vào Việt Nam. Một số DN khác lại không tiến hành giải ngân được do khâu giải phóng mặt bằng chậm và thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp.

Theo sự phản ảnh của các nhà đầu tư, riêng việc cấp đất đã có tới 15 - 20 thủ tục (Giấy phép còn liên quan đến nhiều cơ quan và người dân), đặc biệt khó khăn là việc giải phóng mặt bằng, giải quyết tranh chấp đất đai... Nhiều nhà đầu tư muốn có đất phải thương lượng với dân trong khi các cơ quan quản lý có trách nhiệm lại thờ ơ, sợ chịu trách nhiệm nên đùn đẩy cho nhau, dẫn đến kéo dài thời gian triển khai dự án. Cũng theo các nhà đầu tư để có đất bình quân các DN phải mất thời  gian từ 1- 2 năm, thậm chí có DN phải mất 3- 4 năm. Nhiều dự án thực hiện giải ngân vốn chậm cũng có nguyên nhân từ thủ tục đất đai phiền hà, sách nhiễu. Ví dụ Cty TNHH TFB Việt Nam xin đăng ký kinh doanh sản xuất chè Ô Long ở Hà Giang đã được cấp phép và đất đai sản xuất chè từ năm 2004, nhưng cho đến năm 2007 vẫn chưa được giao đất. Nguyên nhân chính là không giải phóng được mặt bằng do người dân không chịu giao đất cho Nhà nước, trong khi cơ quan chức năng phó mặc cho DN tự giải quyết.

Còn Ông Phạm Minh Trí – Giám đốc nhân sự Cty TNHH Cargill (Đồng Nai) cho biết: "thủ tục đầu tư rất rườm rà phức tạp, không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí hồ sơ được duyệt ở tỉnh này nhưng khi mang một bộ hồ sơ tương tự như vậy đến tỉnh khác lại không được duyệt, điều này đã làm chậm tiến độ đầu tư của DN”. Như vậy, có thể nói rằng tốc độ triển khai các dự án chậm không chỉ do phía DN mà còn có cả những bất cập từ phía các địa phương.

Các DN địa phương vừa nhỏ, vừa yếu
 
Theo nghiên cứu của Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), hầu hết các DN đầu tư về nông thôn, nông nghiệp hiện nay có quy mô nhỏ, xuất phát điểm về vốn, công nghệ còn rất thấp. Mặc dù đầu tư về nông thôn nhưng không ít DN để có được đất đai xây dựng mặt bằng sản xuất cũng phải tốn phí rất nhiều thời gian và vốn liếng. Đã vậy, các DN địa phương lại rất khó có thể tiếp cận được các nguồn vốn vay ở các thể chế tài chính và luôn bị các DN lớn hơn (thường là DN ở các đô thị hoặc DN xuất khẩu) chiếm dụng vốn. Vì thế các DN đa phần phải vay mượn (khoảng 30%) vốn kinh doanh từ phía gia đình bạn bè.

Khó khăn tiếp theo của các DN địa phương chính là khả năng trang bị và đầu tư công nghệ dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không cao. Kết quả là đa phần các DN này chỉ đảm nhận các hoạt động như thu gom, đóng gói, vận chuyển, sơ chế những công việc khá là đơn giản không đòi hỏi công nghệ cao, giá trị gia tăng thấp.

Điều tra của nhóm cán bộ Lê Đức Thịnh và Lê Thị Phi Vân - Bộ môn Nghiên cứu Thể chế nông thôn (IPSARD) cho thấy, các chủ DN gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lí và đặc biệt là các áp lực về pháp lí do không được đào tạo về quản lí DN cũng như tư vấn pháp lí thường xuyên. Các quy định về thủ tục quản lí DN (chế độ theo dõi, báo cáo và quản lí sổ sách) và thủ tục về thuế lại luôn thay đổi, gây áp lực đáng kể cho người quản lí, đứng đầu DN. Có đến trên 1/3 số DN địa phương tuy đăng kí đầy đủ thủ tục nhưng lại không xây dựng hệ thống sổ sách theo quy định mà chỉ thực hiện thu chi báo sổ giống như một hộ kinh doanh.
 
Chính các hạn chế trên đang là rào cản khiến cho việc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn không được như mong muốn cho dù VN liên tục kêu gọi và "trải thảm đỏ' với các nhà đầu tư.
Nguồn: DDDN