
Tin tức
Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện mới: Bốn giải pháp cấp bách (20/08)
06/08/2010 - 24 Lượt xem
Vấn đề đầu tiên cần thực hiện là khắc phục những yếu kém về kết cấu hạ tầng, chủ yếu là giao thông vận tải và năng lượng, đang ảnh hưởng lớn đến việc triển khai đầu tư của DN cả về thời gian và tiền bạc. Chúng ta đều biết thực trạng đường sá nước ta: chiều dài, chiều rộng đều rất không bảo đảm cho giao thông thông suốt; chất lượng lại kém, tai nạn giao thông xảy ra hàng ngày; có những đoạn mà đường đã được mở nhưng cây cầu vẫn cũ kỹ... Vận tải đường sông tăng trưởng kém nhất mặc dù nước ta có hệ thống sông ngòi dày đặc; vận tải biển cũng còn xa mới đáp ứng yêu cầu. Trong mùa mưa bão, khi có thiên tai, lũ lụt, tình trạng giao thông bị chia cắt, đi lại khó khăn, DN thêm thời gian và tốn kém thêm về tiền bạc lại càng lộ rõ.
Đặc biệt, việc thiếu điện và "cắt điện luân phiên" đã thành chuyện thường ngày; DN lao đao vì cắt điện, gây thêm biết bao tốn kém... Vì vậy, việc tập trung đầu tư xây dựng, cải thiện kết cấu hạ tầng đang là một yêu cầu rất lớn. Nhà nước ta đang cố gắng tăng thêm vốn, đồng thời kêu gọi vốn đầu tư bằng nhiều hình thức từ các nguồn khác, trong nước và ngoài nước cho việc đầu tư xây dựng đường sá, cầu cống, cơ sở sản xuất điện và phát triển các nguồn năng lượng khác.
Hai là, giải quyết mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh. Đối với các DN làng nghề, yêu cầu cấp bách nhất hiện nay là có đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu duy trì và mở rộng sản xuất. Theo khảo sát của chúng tôi, đến nay, phần lớn diện tích đất đai ở vị trí thuận lợi đã được giao cho các dự án, lập các khu, cụm công nghiệp, giá đất đã cao, chi phí san lấp, xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn, cho nên các DN làng nghề, chủ yếu là DN nhỏ và vừa không thể thuê lại mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp được. Song cấp đất cho DN ở những vùng lẫn với dân cư cũng không được, nhất là DN làng nghề, vì gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để giải quyết mặt bằng cho các DN hiện nay, cần có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ tầng và giải quyết môi trường cho DN để có thể thuê mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp đã có; hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho làng nghề, chịu chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng, trợ giúp và giảm nhẹ giá thuê để DN có thể thuê đất với giá thấp nhất.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong DN, nhân lực được coi là tài sản quý giá nhất, là nguồn vốn đặc biệt, yếu tố bảo đảm cho năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của DN. Chúng ta dã có hàng trăm trường dạy nghề, nhưng học sinh, sinh viên ra trường không đủ kỹ năng cần thiết để tham gia thị trường lao động, các nhà đầu tư phải đào tạo lại, đào tạo bổ sung, thêm tốn kém. Hơn nữa, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp của lao động nước ta còn thiếu, thể lực cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Sự thiếu hụt lao động cũng đang dẫn đến tình trạng di chuyển lao động đã qua đào tạo giữa các vùng, các ngành, nghề tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường lao động.
Trong các làng nghề, vấn đề nhân lực lại càng cấp bách, vì hiện nay đang có tình trạng lao động làng nghề không thiết tha gắn bó với nghề, thanh niên làng nghề không muốn theo nghề của cha ông, còn nghệ nhân thì nhiều cụ tuổi đã cao, thiếu điều kiện để sáng tác và truyền nghề... Chính vì vậy, DN làng nghề rất cần coi trọng việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, đào tạo nghệ nhân trẻ, phát huy vốn quý của các nghệ nhân nhiều tuổi, hình thành nhiều lớp nghệ nhân trong làng nghề, qua đó tạo lực lượng kế thừa, lưu giữ được những tinh hoa truyền thống làng nghề.
Bốn là, tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước. Để khuyến khích, thu hút được nhiều đầu tư vào phát triển nghề, phát triển DN làng nghề ở nông thôn hiện nay, việc tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Nội dung gồm nhiều loại vấn đề: như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh doanh; tiến hành công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; xúc tiến thương mại; trợ giúp ứng dụng khoa học công nghệ (nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và nhất là nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên); đào tạo nhân lực... và nhất là đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm bớt khó khăn cho DN về các thủ tục hành chính.
TS Phạm Thị Thu Hằng - Viện trưởng Viện Phát triển DN VCCI:
DN cần tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị Nhu cầu về sản phẩm nông sản trên thế giới trong thời gian qua tăng mạnh. Các DN đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm tại Việt Nam cũng phát triển khá mạnh với tốc độ trung bình khá so với các ngành khác. Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi, Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết lợi thế cạnh tranh của mình là một nước có nền nông nghiệp khá phổ biến. Trong tương lai, ngành chế biến nông sản thực phẩm của Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ hội phát triển. Về mặt thuận lợi, các DN đầu tư vào lĩnh vực này có nguồn nguyên liệu khá dồi dào, thị trường tiêu thụ lớn với hơn 84 triệu dân, tốc độ tiêu thụ trong nước cũng tăng mạnh theo sức mua của người dân. Tuy nhiên, DN chế biến thực phẩm ở Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế như đầu tư nhỏ, hạn chế trong đầu tư đổi mới công nghệ.
Đặc biệt, trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển, các DN chế biến không có những sáng kiến mới trong khi DN trên thế giới đầu tư cho lĩnh vực này rất lớn. Bên cạnh đó, kỹ năng quản lý, sự liên kết giữa các DN, giữa người mua người bán, giữa người cung cấp nguyên liệu và người kinh doanh... chưa tốt, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém nên ảnh hưởng lớn tới các vấn đề vận chuyển, bảo quản, bao bì đóng gói... làm cho thương hiệu của sản phẩm chế biến Việt Nam chưa thực sự được khẳng định trên thị trường quốc tế.
Chính vì thế, trong thời gian qua, VCCI đã có những hoạt động hỗ trợ DN trong lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm xuất phát từ quan điểm hỗ trợ DN tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị. Tôi đề xuất 2 kiến nghị cơ bản. Thứ nhất, đối với DN, cần quan tâm hơn nữa vào việc tham gia các chuỗi giá trị, tăng cường liên kết từ khâu nuôi trồng đến khâu phân phối để tạo ra một sản phẩm tốt cho người tiêu dùng. Về phía các cơ quan chức năng, cần đẩy mạnh hơn việc đầu tư, hỗ trợ cho DN trong việc nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, hỗ trợ cho DN tiếp cận thị trường tốt hơn.
Ông Nguyễn Công Suất - GĐ Cty Chế biến dầu thực vật và thực phẩm Việt Nam:
Chúng tôi đang phải đương đầu với những khó khăn
Cty Chế biến dầu thực vật và thực phẩm Việt Nam (VNPOFOOD) ra đời năm 2001, tháng 4/2002 sản phẩm VINAGA được cấp phép của Bộ Y tế. Nhưng trước đó, thời kỳ ở Viện Quân y 108, chúng tôi đã sản xuất dầu gấc để điều trị cho bộ đội bị nhiễm chất độc dioxin, ung thư gan và bán cho các hãng dược phẩm của Mỹ... Qua hơn chục năm nghiên cứu phát triển, chúng tôi đã ứng dụng sản xuất trái gấc thành một loại thuốc, một loại thực phẩm để phòng, chữa bệnh, góp phần bảo vệ sức khoẻ cho mọi người...
Tuy nhiên, hiện nay, VNPOFOOD và sản phẩm VINAGA từ trái gấc đang phải đương đầu với những áp lực, khó khăn nhất định. Về vấn đề thu mua nguyên liệu, trong những năm đầu, người dân trồng gấc rất ít mà dầu gấc chỉ được chiết từ màng đỏ nên phải cần một lượng gấc khổng lồ mới đủ. Hiện nay, gấc đã được trồng nhiều nhưng người dân bán gấc không có hoá đơn tài chính. Do đó, mỗi năm VNPOFOOD phải chi trên 10 tỷ tiền mặt để mua gấc cho dân nhưng không hề được khấu trừ thuế đầu vào. Đây là một thiệt thòi lớn mà chúng tôi phải gánh chịu.
VNPOFOOD cũng như nhiều DN khác hiện cũng đang gặp một vấn đề khác hết sức nguy hiểm - đó là hàng nhái, hàng giả. 5 năm sau khi sản phẩm dầu gấc VINAGA có mặt trên thị trường, nhiều loại hàng nhái đã bắt đầu xuất hiện và đến hôm nay, hàng nhái mọc lên như nấm. Theo thống kê của chúng tôi, trên thị trường đang có hơn 20 loại hàng nhái, có những nơi một đơn vị cho ra đến 4 loại hàng nhái, hàng giá... Ví dụ: Sản phẩm đầu tiên chính hãng của chúng tôi là Dầu gấc viên nang VINAGA đã bị nhái thành Dầu gấc VITAGA, VIKAGA, Dầu gấc VINA, VINA dầu gấc, VINATIGA, dầu gấc Hoa Sim, Hoa Viên,... Người tiêu dùng thì cứ thấy na ná như VINAGA nên không phân biệt được thật, giả và cứ tưởng đâu cũng là dầu gấc.
Ông Nguyễn Lâm Viên - TGĐ Cty CP Vinamit: Bắt đầu bằng chính sách thuế
Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vấn đề lớn nhất mà chúng tôi gặp phải là việc thay đổi ý thức và suy nghĩ tiểu nông, sản xuất nhỏ hiện vẫn còn ăn sâu trong nhận thức của người nông dân, đặc biệt tại một đất nước mà nông nghiệp vẫn còn rất lạc hậu và chưa được đầu tư đúng mức như Việt Nam. Có rất nhiều những nghịch lý mà Vinamit nói riêng hay các DN đầu tư vào nông nghiệp cần phải tháo gỡ. Đó là người nông dân thu hoạch tập trung theo mùa trong khi DN cần sử dụng quanh năm; gười nông dân cần thu hoạch nhiều, nghịch mùa nhưng DN lại cần sản phẩm không có chất hoá học; người nông dân với quy mô sản xuất nhỏ, thiếu liên kết trong khi DN cần sản phẩm đa dạng khối lượng lớn; quan niệm trồng Vười tạp của người nông dân đối lập với nhu cầu sản phẩm chuyên canh của thị trường lớn; người nông dân chỉ thích bán sản phẩm lợi nhuận cao còn DN lại cần phải tạo ra sản phẩm có thương hiệu... Bên cạnh đó, vấn đề hạn điền cũng không cho phép mở rộng sản xuất theo xu hướng công nghiệp. Vấn đề thuế GTGT cho các DN sản xuất sản phẩm nông nghiệp hiện cũng là một bất cập, đúng theo quy định thì họ không phải chịu thuế, nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, thậm chí thuế đầu vào không có nhưng sản phẩm đầu ra vẫn phải đóng đủ.
Vì vậy, theo chúng tôi, để hỗ trợ DN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông sản nói riêng, DN đầu tư vào nông nghiệp nói chung, Nhà nước có thể thực hiện các tiện ích xã hội, mở mang đường giao thông, tổ chức các chương trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học. Với vai trò tổ chức quản lý của mình, Nhà nước có thể hỗ trợ người nông dân và DN bằng các chính sách gắn kết Nhà nông, Nhà khoa học và Nhà DN để cùng giải quyết những khó khăn nghịch lý nêu trên và giúp doanh nghiệp phát triển nông nghiệp mạnh mẽ hơn nữa bằng chính sách thuế bởi hiện nay còn nhiều bất cập. |
Nguồn: DDDN
