Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hậu cái chết của DN tư nhân: giải quyết ra sao? (21/08)

06/08/2010 - 28 Lượt xem

Ông Kiêm là Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam, nguyên Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

4 cái khó lớn và sự năng động, linh hoạt

DN tư nhân bị chèn lấn là tồn tại rất lớn trong nền kinh tế ở điều kiện bình thường của Việt Nam. Trong bối cảnh khó khăn, sự chèn lấn này càng bộc lộ rõ. Khi lạm phát, suy cho tới cùng, hai đối tượng chịu thua thiệt là người nghèo và các DN vừa và nhỏ.

- Theo ông, đâu là những thách thức lớn mà các DN vừa và nhỏ phải đối mặt trong lạm phát?

Trong lạm phát, khu vực DN này gặp 4 cái khó lớn: thiếu vốn, thiếu nghề, thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, và thiếu thông tin. Trong đó khó nhất là vấn đề vốn.

Bản thân DN vừa và nhỏ vốn hẻo, lại thêm những hạn chế do chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao, nên cơ hội tiếp cận càng khó hơn. Với mức lãi suất 21% hiện nay, nhiều DN khó làm việc hiệu quả để đảm bảo trả nợ và lãi ngân hàng. Trong khi tất cả các chi phí tăng cao, và tăng nhanh, lợi nhuận làm ra khó để đảm bảo DN có lãi.

Khi lạm phát tăng, hệ quả tất yếu là tiêu dùng sẽ bị hạn chế, thu hẹp, cầu giảm, nên khả năng sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu đời sống cũng giảm dưới tác động của sức mua.

Hiện nay, DN vừa và nhỏ có thể xếp chung vào hai nhóm. Nhóm thứ nhất là các DN có khả năng chuyển hướng nhanh, quen thích nghi với thị trường. Những DN này thực chất là tiềm lực vốn tốt, không phụ thuộc vào nguồn vốn vay, phần vốn tự túc chiếm vai trò chủ đạo, do đó, thiệt hại do lạm phát và thắt chặt chính sách tiền tệ có mức độ hơn trong so sánh với các DN phải dựa vào vốn vay ngân hàng để kinh doanh là chính.

Nhóm DN có lực tốt thì khả năng điều chỉnh tốt, nhanh hơn, và rủi ro chịu đựng có mức độ hơn. Nhóm thứ hai là các DN phải đi vay vốn, thì số phận đang rất gian nan.

- Khu vực dân doanh luôn được đánh giá là năng động nhất, có khả năng thích ứng cao. Liên quan đến vấn đề tiếp cận vốn, được biết các DN vừa và nhỏ Việt Nam đã chủ động hỗ trợ lẫn nhau, hình thành "hệ thống ngân hàng ngầm" để các DN giúp nhau, dành lực cho những đối tượng có lực sống lớn hơn, những "cá thể được chọn lọc"?

Trong thời điểm khó khăn, các ngân hàng hạn chế cho vay. Giải pháp cho DN lựa chọn là tìm mọi cách tiết kiệm chi phí, tăng hiệu suất hoặc chuyển hướng sản phẩm để giảm vốn.

Ngân hàng cũng là một dạng DN, và trong khi khó khăn, lẽ đương nhiên họ cũng chọn khách hàng để cho vay. Họ dành ưu tiên vay vốn cho các đối tác, bạn hàng truyền thống, để hạn chế rủi ro. Những đối tác ưu tiên thường là các đơn vị có kế hoạch kinh doanh tốt, làm lâu dài. Với các DN mới ra đời, hoặc quan hệ hợp tác trước đó có lúc không tín nhiệm, các ngân hàng sẽ co lại trong việc cho vay vốn.

Các DN hỗ trợ lẫn nhau là điều dễ hiểu, dựa trên khả năng đánh giá và hiểu đúng năng lực thực của nhau.

Quý IV, các DN phải cố rướn để đạt kế hoạch năm

- Nhiều đánh giá cho rằng, thời điểm khó khăn nhất của nền kinh tế vẫn chưa tới. Và thời điểm đó được dự đoán sẽ là quý IV của năm 2008 này?

Đúng là khó khăn vẫn còn ở phía trước, dù Việt Nam đã đạt được kết quả bước đầu trong chống lạm phát. Các DN gặp khó khăn vừa là tồn dư tích tụ từ những năm cũ đồng thời là hệ quả của chính sách mới, trong đó có thắt chặt tiền tệ, tín dụng. Đồng thời với những mặt thuận của thắt chặt tín dụng, những mặt trái cũng bắt đầu phát huy tác dụng: giá cả tăng lên, DN thiếu vốn và khả năng tiếp cận vốn bị thu hẹp...

Khó khăn sẽ dồn vào quý IV, khi mọi cơ quan đơn vị phải nhô lên, rướn lên để hoàn thành các kế hoạch, chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh đã đặt ra. Rót vốn giải ngân sẽ tăng, nhập siêu tăng và cả chi tiêu hành chính cũng tăng lên... Số tiền đầu ra nhiều, vừa để hoàn thành mục tiêu năm 2008, vừa để "gối đầu" cho năm 2009. Điều này đẩy lạm phát lên cao hơn.

Sức khỏe DN

- Nhiều người cho rằng, trong khó khăn mới biết sức khỏe của DN. Là Chủ tịch của cơ quan đại diện cho các DN vừa và nhỏ, ông thấy sức khỏe của các DN thế nào?

Tình hình hiện nay bộc lộ rõ, chỉ khoảng 20% DN có khả năng thích ứng và vươn lên bởi họ có thực lực (vốn nhiều, kỹ thuật tiên tiến, thương hiệu tốt). Nhóm thứ hai là nhóm đang cố gắng cầm cự chờ bão đi qua.

Nhóm thứ ba hiện chiếm khoảng 20% DN, là những DN đã nằm im, dừng hẳn các hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Có khá nhiều những cái chết lặng im, không ồn ào tuyên bố, cứ tự lịm đi, và biến mất, bằng phá sản, giải thể, sáp nhập hay mất thương hiệu...

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận, khu vực dân doanh có khả năng phục hồi rất nhanh, là động lực cho sự phục hồi của cả nền kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với lợi thế của tự chủ kinh doanh và quy mô nhỏ, phù hợp năng lực điều hành, các DN này khi gặp khó co lại rất nhanh, giảm thiểu bị tổn thương, đồng thời, cũng mở ra nhanh khi có cơ hội phát triển.

Trong điều kiện bình thường, hàng ngày có bao nhiêu DN vừa và nhỏ chết đi đồng thời cũng có nhiều DN khác ra đời. Cần phải xem đây là điều hết sức bình thường trong một nền kinh tế thị trường. Điều quan trọng phải lưu tâm là giải quyết hậu quả của những cái chết ấy như thế nào. Một bộ phận lao động sẽ chuyển hướng, trở về với nông thôn, còn bộ phận khác thất nghiệp sẽ đi đâu, về đâu?

- Là người đứng đầu cơ quan đại diện tiếng nói của DN vừa và nhỏ, ông có khuyến nghị gì?

Một là, cần bình đẳng thực sự cho DN và người lao động để họ được hưởng một cách công bằng và minh bạch đầy đủ các chính sách đã được Nhà nước đưa ra, cũng như những vấn đề trong quản lý điều hành.

Thực tế hiện nay, các DN lớn vẫn có quá nhiều lợi thế được trao trong cạnh tranh với DN vừa và nhỏ. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng thực sự là điều phải làm và làm một cách tích cực.

Hai là, cần phải phân loại DN và các chính sách cũng từ đó có phân loại rõ để dành những hỗ trợ về thuế, tín dụng, công nghệ, hay đào tạo nghề... Cần thực sự phân loại để chiếu cố cho người không có cơ hội . Đây là vấn đề nhà nước cần can thiệp bằng các chính sách, giải pháp cụ thể.

Ba là nhà nước cung cấp thông tin nhanh, đủ và chính xác cho DN về thị trường và chính sách, để DN chủ động tìm hướng đi cho mình. Bởi hiện nay, DN vừa và nhỏ thường thiếu thông tin. Đơn cử, nhà nước cần công bố trước, minh bạch về biểu thuế, lãi suất... để DN và người dân nắm được.

Hơn nữa, cần có giám sát để phát hiện hành vi cục bộ, thông đồng, ăn cánh với nhau của DN và cơ quan nhà nước, từ đó có chế tài xử phạt nghiêm minh.

Cách tốt nhất giúp người lao động là nhanh chóng khôi phục nền kinh tế

- Trở lại một điểm ông đã nói: vấn đề lớn nhất đặt ra là số phận người lao động đằng sau những cái chết lặng im của các DN. Người lao động hiện nay ra sao?

Đương nhiên người lao động sẽ gặp nhiều khó khăn, một bộ phận thất nghiệp, một bộ phận vẫn có việc làm nhưng lượng công việc bị thu hẹp lại. Trong lạm phát, kinh tế khó khăn, chủ thiệt một, người lao động thiệt mười. Số việc làm giãn ra, thu nhập của người lao động càng ít, trong khi giá cả sinh hoạt tăng cao. Đó thực sự là một vấn đề lớn với nền kinh tế.

- Có thể hỗ trợ gì cho người lao động trong tình thế đó, để đảm bảo vấn đề an sinh cho người dân?

Cách tốt nhất để giúp người lao động là có hệ thống chính sách, biện pháp để nền kinh tế ổn định, chuyển hướng phát triển. Được như vậy, sản xuất sẽ gia tăng, tạo ra nhiều việc làm, thu nhập ổn định cho người lao động. Với những chính sách riêng lẻ, cụ thể để giúp DN khả năng thực thi rất khó.

Theo tôi, để giúp người lao động thì có 3 việc phải làm: Một là, với DN, bản thân họ phải tự vươn lên, chấn chỉnh hoạt động để có thể trụ lại, phát triển tốt hơn. Hai là, về phần Nhà nước cũng cần chính sách, nhất là các chính sách trọn gói đồng bộ tạo sự chuyển biến tốt hơn để giảm lạm phát, giảm lãi suất, tạo điều kiện cho DN tiếp cận vốn, từ đó ổn định kinh tế. Ba là, đã đến lúc cần phân loại DN để có chính sách hỗ trợ phù hợp, đặc biệt với các DN gặp nhiều khó khăn, cần có hỗ trợ bằng chính sách an sinh khác cho người lao động.

- Trách nhiệm của DN đối với người lao động trong hoàn cảnh này như thế nào?

Bản thân DN cũng không có trách nhiệm và không thể làm được gì nhiều cho người dân. Thị trường sẽ tự điều chỉnh. Vai trò của nhà nước là tạo ra các yếu tố về chính sách và sử dụng để tạo thêm nhiều việc làm, trao thêm nhiều cơ hội cho người lao động. Nghĩa là, tìm lối ra cho người lao động gắn với việc mở rộng đường cho DN dân doanh.

Đương nhiên việc này cần phải có thời gian, không thể làm nhanh, làm gấp được, nhất là trong bối cảnh lạm phát khốc liệt này. Phải chịu và tự chấp nhận, chỉ cần xác định trước - sau, nhanh chậm.
Nguồn: Vietnamnet