Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Những nghịch lý "níu chân" doanh nghiệp Nhà nước (09/09)

06/08/2010 - 34 Lượt xem

Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh trao đổi với chúng tôi về hoạt động của các DNNN, gắn với quá trình cổ phần hoá và những lúng túng "níu chân" DN về mối quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước và quản trị doanh nghiệp; tư duy về vai trò chủ đạo của Nhà nước và sự ám ảnh của thói quen xin - cho, can thiệp bằng mệnh lệnh vào doanh nghiệp tại nhiều cơ quan nhà nước.

Cổ phần hoá: Làm tuỳ hứng thì không thể đạt kết quả

- Trong lĩnh vực đầu tư công, mảng yếu kém được các chuyên gia cũng như các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế đề cập nhiều nhất là các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Ông cảm thấy điều gì là đáng quan ngại nhất đối với khu vực DNNN hiện nay?

Tôi cho rằng, trước hết phải đánh giá lại cho chuẩn xác xem tình hình hiện nay các doanh nghiệp làm ăn như thế nào mới có thể đưa ra kết luận họ hoạt động hiệu quả hay không hiệu quả.

Thứ hai là cơ chế chính sách phải thay đổi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác. Ngoài ra, hệ thống giám sát cảnh báo phải rõ ràng. Trên cơ sở đó mới có đánh giá được.

- Trên thực tế chúng ta đã có nhiều cơ quan giám sát, kiểm tra như Thanh tra Chính phủ, Kiểm tóan Nhà nước. Mới đây, các cơ quan này cũng công bố kiểm toán của  một số doanh nghiệp nhà nước, nhưng kết quả đều là những con số “ khá đẹp” thưa bộ trưởng ?

Phải xem xét từng trường hợp cụ thể mới có thể đánh giá chuẩn xác được. Tôi cho rằng nhận định như vậy thì không hoàn toàn khách quan.

- Có những ý kiến cho rằng, chính vì tư duy Nhà nước phải là chủ đạo đã níu chân các DNNN. Chẳng hạn, chúng ta quyết tâm thực hiện cổ phần hoá DNNN để nâng cao hiệu quả hoạt động nhưng lại lo ngại việc "pha loãng" vốn nhà nước nên mỗi khi doanh nghiệp muốn xin tăng vốn thường phải trải qua những quy trình thủ tục phức tạp và rất khó khăn. Đây có phải là một mâu thuẫn không?

Đúng là có chuyện như vậy. Nhưng tôi cho rằng, cần phải quán triệt tư duy cổ phần hoá là cần thiết và phải tiếp tục triển khai. Cổ phần hoá là cho phép sự tham gia của các thành phần bên ngoài để tăng thêm vốn, tăng sự công khai minh bạch trong hoạt động của DN.

Thứ hai, những lĩnh vực nào nhà nước không nhất thiết phải làm thì để các thành phần kinh tế khác làm. Trên quan điểm như vậy có những phần quan trọng của nền kinh tế mà nhà nước cần phải chi phối thì nhà nước vẫn nắm giữ.

Nếu chúng ta cứ nói và làm một cách tùy hứng thì sẽ không thể đạt được kết quả tổng thể và lâu dài.

- Vậy tại sao trong số các DNNN đã được cổ phần hoá, tỷ lệ các DNNN lớn rất thấp, chủ yếu là các DN nhỏ và thuộc địa phương?

Đối với các doanh nghiệp lớn, chủ trương của Chính phủ là làm từng bước, không làm ào ạt. Khi cổ phần hóa các doanh nhỏ và vừa thì có sẩy chân nhẹ cũng không quá lớn, nhưng các tập đoàn lớn thì phải làm từng bước.

Thứ hai là trong bối cảnh thời gian qua thị trường có xu hướng đi xuống do nhiều nguyên nhân, nhất là do kinh tế thế giới, lạm phát trong nước.v.v nên việc đấu giá không phải lúc nào cũng đạt như mong muốn. Có khi chúng ta phát hành 15% nhưng thực tế lại chỉ 10% thì cũng phải chấp nhận và kiên trì làm.

Nhưng báo cáo giám sát cổ phần hoá của Quốc hội vừa qua đã nhấn mạnh hiện tượng định giá tài sản DN chưa tính đến một cách đúng đắn giá trị về đất đai, lợi thế vị trí, thương hiệu...Từ đó, người ta lo ngại chuyện tài sản Nhà nước đang bị bán rẻ. Quan điểm của Bộ trưởng?

Thực ra tính toán thật sự chính xác các loại hình tài sản của doanh nghiệp là rất khó khăn. Để khắc phục chuyện đó thì việc đấu giá công khai trên thị trường quốc tế là một giải pháp quan trọng. Bởi khi được định giá trên thị trường thì cũng phần nào xóa đi những định giá không chuẩn, do thị trường quyết định kể cả thương hiệu, lợi thế. Cơ chế mới đã khắc phục được một phần. Để khắc phục được triệt để hơn thì sắp tới đây chúng ta phải sửa luật đất đai.

Không thể can thiệp vào DNNN bằng mệnh lệnh!

- Nhưng ngay cả đối với việc quản lý phần vốn Nhà nước trong các DNNN đang gặp rất nhiều lúng túng. Ngay như mô hình quản trị tài chính kiểu của Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh  vốn nhà nước SCIC dù đã có những hiệu quả nhất định nhưng Thứ trưởng tài chính Trần Xuân Hà cũng thừa nhận cơ chế quản lý vốn này đang thể hiện nhiều bất cập. Theo ông, những bất cập cụ thể đó là gì?

Còn rất nhiều việc phải làm để quản lý hiệu quả phần vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp. Nếu muốn làm tốt, phải xác định rõ đại diện chủ sở hữu của nhà nước tại doanh nghiệp. Hiện nay cơ chế về đại diện chủ sở hữu NN tại doanh nghiệp thật sự chưa được hoàn chỉnh, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện việc này.

Việc ra đời SCIC cũng chính là nhằm mục tiêu: đổi mới quản trị tài chính trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước; tăng cường vai trò của chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp đó, làm sao để sản xuất kinh doanh và đầu tư hiệu qủa cao nhất. Bước đầu SCIC đã làm được một số kết quả nhất định, nhưng so với yêu cầu chưa hoàn toàn đáp ứng được.

Sắp tới về nguyên tắc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp là mang tính chất đầu tư và hạch toán dự án, không phải can thiệp bằng mệnh lệnh. Chúng ta phải lựa chọn, thẩm định những dự án có hiệu quả thì đầu tư, những dự án không hiệu quả thì không nhất thiết nhà nước phải đầu tư vào, trừ trường hợp thực hiện nhiệm vụ chính trị của Chính  phủ .

Đầu tư đa ngành nhưng phải tập trung vốn làm nhiệm vụ chính trị

- Quay trở lại vấn đề đầu tư của các tập đoàn, thời gian qua đã có quá nhiều quan ngại về hiện tượng tập đoàn đầu tư ra ngoài ngành, thực tế này đòi hỏi việc kiểm soát phải như thế nào?

Nếu chúng ta chấp nhận hình thành các tập đoàn kinh tế cũng có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận tập đoàn kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Việc đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp phải có mức độ chấp nhận nhất định.


Tuy nhiên vì các tập đoàn này có phần sở hữu của Nhà nước là chủ yếu nên Nhà nước cần thiết phải kiểm soát đầu tư ra bên ngoài.

Trên cơ sở nguyên tắc như vậy Bộ Tài chính đang trình Chính  phủ đồng ý cho doanh nghiệp đầu tư ra bên ngoài nhưng có mức độ, còn lại doanh nghiệp và các tập đoàn phải dành vốn để thực hiện nhiệm vụ chính trị mà nhà nước mong muốn.

Ví dụ trong ngành điện, chúng ta đang thiếu điện thì phải dành vốn tập trung đầu tư vào điện chứ không phải dành vốn đầu tư vào các lĩnh vực khác như khu đô thị, resort...

- Quản lý như thế nào cho hiệu quả đối với các tập đoàn kinh tế Nhà nước luôn là bài toán đau đầu đối với mọi quốc gia. Thực tế cho thấy, các nước, ngay cả khi có chế độ tư bản phát triển vẫn phải thành lập những tập đoàn kinh tế nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ mang tính chính trị mà tư nhân không muốn làm nhưng có ý nghĩa sống còn với nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng: điện, nước, giao thông...Kinh nghiệm đã được tổng kết là: Tập đoàn Nhà nước chỉ có thể hoạt động hiệu quả và làm tròn nhiệm vụ của nó khi dựa trên nền tảng một nhà nước pháp quyền và cơ chế tài chính công khai, minh bạch. Đối với các tập đoàn của chúng ta thì sao, thưa Bộ trưởng?

Đúng như vậy. Muốn quản lý hiệu quả các tập đoàn, không có cách nào khác chúng ta phải xây dựng một hệ thống chính sách minh bạch. Hiện nay, Bộ Tài chính đang kiến nghị sửa đổi, hoàn chỉnh chính sách, cơ chế tài chính đối với tập đoàn.

Chính sách nói chung của Bộ Tài chính là tuân thủ các nguyên tắc thị trường, minh bạch, tạo một hành lang pháp lý để doanh nghiệp căn cứ vào đó thực hiện, bỏ tư tưởng doanh nghiệp cứ phải lên xin cơ quan nhà nước, rồi cơ quan nhà nước duyệt cho doanh nghiệp. Nếu như các nhiệm vụ mà các thành phần kinh tế khác không làm nhưng rất quan trọng cho nền kinh tế mà nhà nước phải làm thì phải giao nhiệm vụ, có cơ chế đặc thù. Đối với các loại hình khác thì cần tạo cơ chế bình đẳng.

Căn cứ vào cơ chế, chính sách đó, chúng ta sẽ yêu cầu các doanh nghiệp chế độ báo cáo, yêu cầu doanh nghiệp phải kiểm toán hàng năm, cơ quan chức năng của Chính phủ phải kiểm tra thường xuyên.

Ngoài ra, tôi cho rằng, một trong những giải pháp đột phá đối với quản trị DNNN là thực hiện chế độ thuê Tổng giám đốc điều hành (CEO) nhằm tách bạch vai trò đại diện chủ sở hữu và vai trò quản trị DN. Bộ Tài chính đang xây dựng chính sách cho hoạt động này và thực tế, một số tập đoàn đã thí điểm việc thuê CEO bên ngoài.

- Vâng, Bộ Tài chính nói rằng phải đề cao tư duy quản lý trên nguyên tắc thị trường, bỏ thói quen can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính nhưng thực tiễn thì cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại rất nặng nề trong hoạt động của nhiều bộ, ngành và lãnh đạo địa phương. Chẳng hạn như vẫn còn quá nhiều bộ chủ quản. Ngay như trong dự thảo nghị định về quản lý tập đoàn, các tập đoàn đang kêu ca phải chịu thêm nhiều đầu mối quản lý, nhiều Bộ tham gia vào các khâu kiểm tra giám sát. Làm sao bỏ được quán tính tư duy này?

Đây là vấn đề tồn tại đã quá lâu dài, không thể giải quyết ngay lập tức trong thời gian ngắn. Điều quan trọng là Chính phủ đã nhận thức được. Trong chỉ đạo hiện nay, Chính phủ có chủ trương bỏ chủ quản thông qua vai trò của các bộ và địa phương. Việc thành lập SCIC là đi theo hướng đó.

Nhưng bỏ được một cách triệt để thì phải có thời gian, đi cùng với đó là có cơ chế minh bạch.

- Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Nguồn: Vietnamnet