Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Hợp tác để nâng “chất” ngân hàng: “Hợp nội” hay “kết ngoại”? (09/09)

06/08/2010 - 32 Lượt xem

Nhiều rủi ro vì sự đơn điệu

Mặc dù kết quả kinh doanh nửa đầu năm 2008 do đa số NHTM công bố đều khá khả quan nhưng theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, giai đoạn cuối năm sẽ khó sáng sủa.

Nguồn gốc sâu xa đến từ đường lối phát triển quá chú trọng vào tín dụng. Năm 2007 vừa qua, ngành NH đã có sự tăng trưởng quá nhanh so với dự báo của giới chuyên gia. Tổng dư nợ tín dụng toàn ngành tăng đến 53% so với năm 2006. Đây là mức tăng bất thường, các năm trước tỷ lệ tăng trưởng dao động quanh khoảng 30%. Cũng từ đầu năm, khi nền kinh tế nước ta không được như ý, đã xuất hiện nhiều cảnh báo về những “yếu huyệt” của các NHTM.

Lúc này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đưa ra những “động tác” kiên quyết. Để kiềm chế lạm phát, NHNN đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% và nâng lãi suất (LS) cơ bản lên 14%/năm. Với chính sách trên, hệ thống NHTM đã chới với, tính thanh khoản giảm sút, nhất là các NH nhỏ.

Để giải nguy, các NH đã chạy đua tăng LS huy động tiền gửi, làm khoảng cách giữa LS huy động và LS cho vay nhiều khi được rút ngắn xuống còn 2%-3%, một khoảng cách không đảm bảo cho vay có lãi.

“Sức khỏe” của các tổ chức tín dụng (TCTD) có phần “tươi tắn” đáng kể khi mới đây NHNN đã tăng LS tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng tiền VNĐ từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm. Tuy vậy, theo ông Hồ Hữu Hạnh, Giám đốc NHNN VN-Chi nhánh TPHCM, từ nay đến cuối năm các NHTM trên địa bàn TPHCM sẽ còn gặp nhiều khó khăn do chất lượng tín dụng giảm sút vì khách hàng khó trả được nợ; riêng các NH có vốn thấp, tiềm lực tài chính yếu sẽ có khả năng bị lỗ.

Theo TS Hồ Diệu, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Ngân hàng TPHCM, phần lớn hoạt động của NHTM VN là tín dụng với lợi nhuận từ mảng này chiếm đến 80% tổng lợi nhuận. Chính vì vậy, NHNN đã khống chế mức tăng trưởng tín dụng năm 2008 của các NH ở con số 30%. Và đến giờ cũng đã có nhiều ý kiến đòi nới lỏng “vòng kim cô” này.

Rõ ràng NHTM VN quá phụ thuộc vào các hoạt động tín dụng, kém đa dạng sản phẩm. Chính sự “nghèo nàn” về dịch vụ, chỉ chú trọng đến sản phẩm “cổ điển” cho vay là nguy cơ đe dọa sự phát triển bền vững của các NHTM VN.

Nên tác hợp các NH nhỏ

TS Hồ Diệu, Phó Hiệu trưởng ĐH Ngân hàng TPHCM

Xu hướng hợp tác giữa các NH, nhất là giữa NH nội với NH ngoại là chuyện đương nhiên khi phần lớn NHTM của nước ta còn non trẻ. Chưa kể đến bình diện thế giới, chỉ so với các NH trong khu vực ASEAN, quy mô vốn vài tỷ USD vẫn là niềm mơ ước chưa thành của các NHTM VN. Tính ổn định của nguồn vốn của các NH nội cũng chưa cao do trình độ quản trị của bản thân NH thấp và quản lý vĩ mô chưa tốt. Việc chia sẻ CP cho NH ngoại sẽ giúp NH nội thừa hưởng được công nghệ và quản trị tiên tiến của họ; còn các NH nội liên kết với nhau sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí mà mạng lưới vẫn rộng thêm, thêm nguồn đầu vào và cắt giảm được chi phí nhân sự.

Theo TS Nguyễn Đại Lai, Phó Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng-NHNN, các NHTM nội địa vẫn áp đảo về thị phần tín dụng, chiếm tỷ trọng khoảng trên 80%, phần còn lại là các NH liên doanh và nước ngoài. Tuy nhiên, trên lộ trình hội nhập WTO đầy đủ, thị phần của một số NHTM đã bắt đầu bị sụt giảm.

So với cuối năm 2007, nửa đầu năm 2008, các NH liên doanh và nước ngoài có tỷ lệ tăng trưởng tài sản và dư nợ khá cao, tương ứng khoảng 33% và gần 50%.

Đến nay, khối NH này chỉ chiếm 9,3% tổng dư nợ cho vay (cả VNĐ và USD), nhưng chiếm tới 29,5%/tổng dư nợ cho vay bằng USD của toàn hệ thống NH.

Không những suy giảm dần về thị phần, các NHTM nội còn phải chấp nhận bị các NH ngoại “ăn dần” cổ phần (CP). Từ động thái ban đầu là mở chi nhánh, các nhà đầu tư và NH ngoại tiến đến mua CP của các NH nội địa.

Sau 10 năm chuyển thành chi nhánh hoàn toàn ở TPHCM, tháng 3-2005, HSBC mở chi nhánh ở Hà Nội, đến tháng 12-2005 đã mua lại 10% CP của NH TMCP Kỹ Thương VN (Techcombank). Đến tháng 7-2007, HSBC lại nâng tỷ lệ sở hữu lên 15% và 1 năm sau đã trở thành NH ngoại đầu tiên tại VN mua được 20% CP của một NH trong nước. Để có được số CP trên của Techcombank, HSBC đã bỏ ra 1.272 tỷ đồng (tương đương 77,1 triệu USD).

Bên cạnh trường hợp HSBC, tháng 9-2006, NHNN đã chấp thuận việc VPBank bán 10% CP cho NH lớn nhất Singapore là Oversea-Chinese Banking Corp (OCBC)… Đến nay đã có 10 NH nội địa “chia sẻ” CP cho các NH ngoại như các trường hợp Deutsche Bank (10% NH TMCP Nhà Hà Nội), ANZ (10% Sacombank), Sumitomo Mitsui Financial Group- SMFG (15% Eximbank VN), Societe Generale (10% NH Đông Nam Á), United Overseas Bank (10% NH Phương Nam), Standard Chartered (15% NH Á Châu), Maybank (15% NH An Bình), BNP Paribas (10% NH Phương Đông).

Theo Phó Tổng Giám đốc Công ty Kiểm toán Ernst & Young Việt Nam Võ Tấn Hoàng Văn, NH ngoại góp vốn sẽ tạo ra động lực làm việc, diện mạo và tư duy quản trị mới cho NH nội. Đồng thời, NH nội còn sẽ tăng trưởng tốt hơn nhờ sản phẩm đa dạng kèm theo nhiều tiện nghi mới cho khách hàng.

Tuy nhiên, ông Văn cũng khuyến cáo rằng các NH nội không nên quá “mơ mộng” vì thực tế là các NH ngoại chỉ tìm đến những NH nội nào có tiềm năng lớn, lợi thế nhất định để giúp họ mở rộng thị trường và bành trướng thương hiệu thôi chứ khó mà đồng hành cùng các NH nhỏ.

Do vậy, ông Văn cho rằng trên bình diện lợi ích quốc gia thì các NH nội nên chọn giải pháp liên kết nhau để cùng tồn tại và phát triển vì VN hiện có quá nhiều NH nhỏ lại na ná nhau mà thiếu những NH có bản sắc riêng. Hướng đi này mang lại nhiều ưu điểm lớn là tiết kiệm được chi phí hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh của NH. 

 

2 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên được cấp phép tại Việt Nam

(SGGP). – Ngày 8-9, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký giấy phép cho Ngân hàng HSBC và Ngân hàng Standard Chartered Bank được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Đây là 2 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên được cấp phép tại Việt Nam.

Trước đó, NHNN đã đồng ý về mặt nguyên tắc cho phép Ngân hàng HSBC, Standard Chartered Bank và ANZ được lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngân hàng con của HSBC tại Việt Nam có tên là Ngân hàng TNHH một thành viên HSBC (Việt Nam); ngân hàng con của Standard Chartered Bank tại Việt Nam có tên là Ngân hàng TNHH một thành viên Standard Chartered (Việt Nam). Cả 2 ngân hàng đều có vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng, thời hạn hoạt động là 99 năm.

Nguồn: SGGP