Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

3 điểm yếu của ngân hàng “nội” (24/09)

06/08/2010 - 38 Lượt xem

Theo định hướng phát triển ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, thì 100%  ngân hàng trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tăng vốn tự có từ 150% đến 200% so với mốc tính ngày 31/12/2000. Do đó, đối với các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ bé, tầm ảnh hưởng hẹp, kinh doanh không hiệu quả thì xu hướng bị mua lại hoặc sáp nhập là điều khó tránh khỏi.

Khả năng tài chính đáng quan ngại

Theo PGS TS Nguyễn Thị Mùi – Phó Giám đốc Học viện Tài chính, dù hệ số an toàn vốn tối thiểu của các NH Việt Nam hiện nay đều đạt chuẩn theo yêu cầu của NHNN (CAR: 8%), nhưng quy mô vốn tự có của các NHTM còn quá nhỏ. Theo số liệu thống kê tính đến hết ngày 31/12/2007, Agribank có quy mô vốn lớn nhất trong các NHTMNN, cũng chỉ đạt khoảng 650 triệu USD, thấp xa so với một số ngân hàng thương mại của một số quốc gia trong khu vực. Còn 37 NHTM cổ phần hiện nay của Việt Nam thì rất ít ngân hàng có vốn trên 200 triệu USD. PGS TS Nguyễn Thị Mùi nhận định: “Vốn tự có thấp, khả năng tích lũy từ nội bộ rất nhỏ nên việc chống đỡ với những hiện tượng đột biến rút tiền gửi, thiếu hụt thanh khoản của hệ thống NH Việt Nam rất yếu”.

Yếu sản phẩm, dịch vụ - thu hẹp thị phần

Có thể thấy rõ sự đơn điệu về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng qua cơ cấu Thu nhập phi lãi/Tổng thu nhập của ngân hàng chỉ chiếm khoảng hơn 5%. Điều này có thể khiến cho các ngân hàng “nội” không thể tận dụng được lợi thế về mạng lưới, khách hàng, kênh phân phối và công nghệ hiện có. Trong chiến lược phát triển sản phẩm, các ngân hàng “nội” vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực tín dụng. Các dịch vụ khác, nếu có, cũng chỉ dừng lại ở dịch vụ thẻ rút tiền, các hoạt động thanh toán qua tài khoản, dịch vụ quản lý tài sản cho cá nhân thu nhập cao, quản lý két sắt, quản lý thấu chi... vốn đã phổ biến trên thế giới lại chưa được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Theo ông Lê Đắc Sơn – Tổng Giám đốc VPBank: “Xét về bản chất, khách hàng luôn mong muốn được sử dụng các sản phẩm ngân hàng có tiện ích. Giả sử, NH nước ngoài và NH Việt Nam cùng cung ứng 1 loại sản phẩm, dịch vụ nhưng sản phẩm của NH nước ngoài có nhiều tiện ích hơn, kết nối được nhiều sản phẩm và đem đến sự thuận tiện cho khách hàng thì khách hàng, dù là người Việt Nam, cũng sẽ xem xét lại quyết định”. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần sớm nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới này. Đây là những lĩnh vực mà ngân NH nước ngoài chiếm ưu thế hơn hẳn các NH trong nước, đặc biệt là ngân hàng Mỹ và Châu Âu.

Trình độ quản lý yếu

Điểm thứ ba là vấn đề trình độ quản lý, đặc biệt trong quản trị danh mục tài sản nợ còn yếu. Trong danh mục tài sản của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn vẫn là hoạt động tín dụng trong khi chất lượng tín dụng chưa cao, tỷ lệ nợ xấu vẫn lớn (khoảng dưới 5%, so với các ngân hàng “ngoại” thường ở mức xấp xỉ 2%), tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Các ngân hàng còn tập trung quá nhiều vốn cho hoạt động tín dụng và đầu tư dài hạn, chưa thiết lập được danh mục đầu tư hợp lý, hiệu quả. Bên cạnh đó, các hoạt động huy động vốn chưa đảm bảo nhu cầu thanh khoản và nhu cầu tín dụng của ngân hàng, dễ dẫn đến rủi ro thanh khoản, việc quản lý kỳ hạn của nguồn vốn huy động còn nhiều bất cập dễ dẫn đến rủi ro tiềm ẩn khi huy động kỳ hạn ngắn nhưng lại cho vay dài hạn.

Theo ông Lê Đắc Sơn, các NH “nội” có thể hợp tác với NH “ngoại” nhằm nhận sự chuyển giao công nghệ và học hỏi các kinh nghiệm của ngân hàng nước ngoài. Từ nay đến năm 2010, Chính phủ có thể nới tỷ lệ sở hữu cho cổ đông chiến lược nước ngoài lên 25%, và tổng số cổ phần NH Việt Nam được phép bán cho đối tác nước ngoài không quá 35%. Bởi chỉ khi đầu tư nhiều họ mới thực sự nhiệt tình với đồng vốn bỏ ra và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với NH Việt Nam.

Nguồn: DDDN