Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Lộ mặt "thủ phạm" gây lạm phát (01/10)

06/08/2010 - 26 Lượt xem

Trước hết, có thể khẳng định chắc chắn rằng, việc giá tiêu dùng chỉ tăng 0,18% trong tháng 9 là một bất ngờ lớn. Bởi lẽ, theo nhiều nhà quản lý, tháng 9 là thời điểm bắt đầu chu kỳ tăng giá cuối năm do nguồn cung tiền, hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng đều tăng, hoạt động đầu tư, nhập khẩu cũng tăng. Bên cạnh đó là những yếu tố tiềm ẩn về dịch bệnh, tác động của bão lũ, giá đầu vào nhập khẩu ở mức cao... Tất cả những yếu tố này đều có thể đẩy giá tiêu dùng tăng cao.

Bất ngờ nhưng chỉ “đáng yêu một nửa””

Cũng chính vì thế, kịch bản thấp cũng được xác định ở mức 0,8% trong tháng 9 (tháng 10: 0,8%; tháng 11: 1%; tháng 12: 1,6%), còn kịch bản cao rất đáng ngại là 1,05% (tháng 10: 1,05%; tháng 11: 1,3%; tháng 12: 1,8%). Nếu nhìn vào mức tăng cùng kỳ bốn năm giá tiêu dùng bước vào giai đoạn sốt nóng gần đây thấp nhất cũng là 0,3% (tháng 9 các năm 2004 và 2006), còn cao nhất lên tới 0,8% (tháng 9 năm 2005), thì các dự báo trên không phải là quá cao, đặc biệt là trong bối cảnh bình quân lạm phát tám tháng đầu năm nay đã lên tới 2,48%/tháng. Trong đó, điều đặc biệt đáng mừng là ở chỗ, thay vì tăng 1,24% trong tháng 7 và 2,35% trong tháng 8, giá của 9 nhóm hàng hoá và dịch vụ tháng này chỉ tăng 0,31%. 

Thế nhưng, những điều nói trên có nghĩa là, việc giá tiêu dùng tuy giảm tốc mạnh rất đáng mừng trong ba tháng trở lại đây (bình quân sáu tháng đầu năm tăng 2,86%/tháng, nhưng tháng 7 chỉ tăng 1,13%; tháng 8 tăng 1,56% và đặc biệt là tháng 9 chỉ tăng 0,18%), nhưng vẫn dựa quá nhiều vào sự tụt dốc của giá lương thực. Bởi lẽ, như các số liệu thống kê cho thấy, nếu giá của nhóm hàng nông sản chiến lược này trong tháng 7 chỉ giảm 0,37%, thì tháng 8 giảm tới 1,10%, còn tháng 9 này giảm tới 1,75%.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị từ đầu tháng 8 vừa qua, các DN phải đẩy mạnh XK để ngăn chặn xu hướng giảm giá lúa gạo đã bắt đầu xuất hiện trong tháng 7, bảo đảm cho người trong lúa có lãi khoảng 40% trở lên, tức là những nỗ lực rất lớn của chúng ta trong gần hai tháng qua không ngoài mục đích tăng gía lương thực trở lại. Kết quả còn hạn chế trong vấn đề này lại góp phần rất quan trọng trong việc giảm mạnh tốc độ tăng gía tiêu dùng như đã nói ở trên.

“Thủ phạm” chính gây lạm phát ngày càng lộ rõ

Tuy nhiên, cũng từ thực trạng đó của nền kinh tế nước ta, có thể nói, “thủ phạm chính” gây lạm phát phi mã trong nhiều tháng qua càng ngày càng lộ rõ. Đó chính là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống.

Cụ thể, từ tháng 1/2007 đến nay, tức là chỉ tính trong giai đoạn giá tiêu dùng tăng “chóng mặt” hai chữ số/năm, các kết quả tính toán từ số liệu thống kê cho thấy, nếu như tỷ trọng trong tổng mức tăng giá tiêu dùng của nhóm hàng này đã tăng hầu như liên tục từ 46,10% lên mức “đỉnh” 71,17% trong tháng 6 vừa qua, nhưng vụ đông xuân “đại thắng” từ Nam chí Bắc đã tạo ra bước ngoặt và tiếp theo là vụ hè thu lại thắng lớn khiến cho giá lương thực liên tục tụt dốc mạnh trong ba tháng vừa qua như đã nói ở trên là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho tỷ trọng này trong 3 tháng vừa qua liên tục giảm và hiện chỉ còn 66,46%. Trong khi đó, tỷ trọng này của 9 nhóm hàng hoá và dich vụ còn lại trong cùng kỳ đã hầu như liên tục giảm từ 53,90% xuống tới mức “đáy” chỉ với 28,53% và hiện đã nhích lên 33,54%.

Đương nhiên, bên cạnh tác dụng rất mạnh của việc liên tục được mùa lúa, nhóm giải pháp hạ nhiệt thị trường thực phẩm bằng cách giảm rất mạnh thuế suất nhập khẩu từ năm 2007 đến nay cũng giữ vai trò ngày càng quan trọng hơn, bởi nó khiến giá của nhóm hàng hiện chiếm tỷ trọng kỷ lục 25,20% trong “rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội” này “mềm hơn” rất nhiều, cho nên đã giúp nhiều mặt hàng thực phẩm nhập khẩu ồ ạt đổ bộ vào thị trường trong nước. Việc ngành chăn nuôi đang “kêu trời” vì khó cạnh tranh với thực phẩm nhập khẩu giá rẻ đủ cho thấy rất rõ điều đó. Nói cách khác, cho dù lạm phát của nền kinh tế nước ta là do rất nhiều nguyên nhân, nhưng không thể phủ nhận một thực tế là, sự trồi sụt của gía lương thực, thực phẩm là “thủ phạm chính” dẫn đến tình trạng tăng phi mã từ đầu năm 2007 đến giữa năm nay, còn từ tháng 7 đến nay đã bước vào giai đoạn hạ nhiệt.

Đã đến lúc nới lỏng tiền tệ ?

Suy cho cùng, xuất phát điểm của hàng loạt khuyến nghị chưa nên nới lỏng tiền tệ hiện nay chính là ở chỗ, tuy không phủ nhận những kết quả chống lạm phát trong ba tháng qua là hết sức đáng mừng, nhưng khoảng thời gian giá tiêu dùng hạ nhiệt như vậy là chưa đủ dài và chưa thể loại trừ nguy cơ lạm phát tăng trở lại khi nền kinh tế đã bắt đầu bước vào “mùa tiêu dùng” như hiện nay. Việc hai kịch bản lạm phát không hề thấp, nếu như không muốn nói là rất đáng ngại trong những tháng tới đã được “vẽ ra” như nói trên đủ cho thấy điều đó.

Thế nhưng, với những động thái của thị trường thế giới và trong nước hiện nay, có nhiều căn cứ rất quan trọng để cho rằng, bất chấp thị trường trong nước đã và đang bước vào “mùa tiêu dùng”, xu thế giá tiêu dùng hạ nhiệt sẽ vẫn được tiếp tục trong những tháng tới.

- Thứ nhất, xu thế giá lương thực tiếp tục “tụt dốc” mạnh trong những tháng tới là điều khó có thể tránh khỏi, cho nên đây sẽ vẫn là tác nhân quan trọng kiềm chế lạm phát. Nhận định này dựa trên ba căn cứ chủ yếu sau đây:

Cho dù Chính phủ đã liên tục đốc thúc các tổ chức XK gạo và các ngành chức năng có liên quan, nhưng tiến độ XK vẫn đang chậm lại, cho nên rất khó có thể đẩy giá gạo tăng mạnh trong những tháng tới như cùng kỳ bốn năm gần đây.  

Trong khi đó, ngay cả trong trường hợp hoàn thành được các mục tiêu khối lượng XK 4,5-4,6 triệu tấn trong cả năm nay, thì tồn kho gạo trong nước vẫn tăng đột biến, cho nên đây cũng là tác nhân kìm giữ không để giá lương thực trong nước tăng, nếu như không muốn nói là tiếp tục làm cho mặt hàng nông sản chiến lược này rớt giá. Bởi lẽ, trong tổng sản lượng trên 1 triệu tấn lúa đông xuân tăng thêm của cả nước năm nay, riêng các tỉnh phía Nam, chủ yếu là của vựa lúa lớn nhất nước, cũng đã tăng trên 660 nghìn tấn và nếu như năng suất lúa hè thu năm nay chỉ cần đạt như cùng kỳ năm 2007, thì sản lượng lúa của nông dân vùng ĐBSCL vụ này cũng tăng thêm khoảng 650 nghìn tấn. Trong khi đó, tuy khối lượng gạo XK năm nay đã được đẩy lên 4,5-4,6 triệu tấn, nhưng rõ ràng là mức này chỉ như hai năm 2006 và 2007, còn kém rất xa kỷ lục 5,25 triệu tấn năm 2005 khi chúng ta “dốc bồ” XK trong điều kiện sản lượng lúa vẫn chỉ quanh quẩn ở dưới ngưỡng 36 triệu tấn.

Những điều nói trên có nghĩa là, trong điều kiện chắc chắn sẽ được mùa lớn như năm nay, việc hạn chế XK cũng đồng nghĩa với việc tăng mạnh khối lượng lúa gạo tồn kho trong nước chắc chắn sẽ là yếu tố khiến giá trong nước không thể tăng, mà có nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm, khác hẳn với kịch bản bốn năm sốt nóng giá cả gần đây.

Mặt khác, kết quả tính toán từ các số liệu thống kê của IMF trong ba năm gía gạo thế giới lên tới mức “đỉnh” trong ba cơn sốt nóng chu kỳ từ năm 1980 trở lại đây giống như năm nay (năm 1981 trong chu kỳ sốt nóng 1980-1983; năm 1991 trong chu kỳ sốt nóng 1988-1992 và năm 1996 trong chu kỳ sốt nóng 1995-1998), bình quân giá gạo thế giới trong 3 tháng cuối năm giảm tới 12,34% so với 9 tháng đầu năm, trong đó kỷ lục giảm là cùng kỳ năm 1981 lên tới 82,89 USD/tấn, tương ứng với 16,46%.  

Như vậy, nếu thị trường gạo thế giới năm nay không “phá lệ”, thì giá gạo thế giới trong 3 tháng cuối năm nay cũng sẽ giảm mạnh, và do vậy, cho dù hoạt động XK gạo của nước ta sẽ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh, thì giá lương thực trong nước cũng không thể tăng do không thể vượt qua “chốt chặn” này.

Nói tóm lại, do sự cộng hưởng của ba yếu tố: được mùa lớn, XK không tăng tương ứng và gía gạo thế giới giảm, có thể loại trừ khả năng gía gạo tăng mạnh trong những tháng tới, cho nên đây sẽ tiếp tục là yếu tố quan trọng kiềm chế lạm phát.

- Thứ hai, đối với một nền kinh tế có độ mở cả ở đầu vào nhập khẩu lẫn ở đầu ra XK đều tăng cực kỳ nhanh và hiện đã rất lớn, đặc biệt là tình trạng “sống nhờ” vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu như nước ta, triển vọng giá nguyên liệu thế giới hạ nhiệt trong những tháng tới cũng sẽ là một yếu tố cực kỳ quan trọng khiến giá cả trong nước tiếp tục hạ nhiệt.

Trước hết, các kết quả tính toán từ nguồn số liệu thống kê giá cả nguyên liệu thế giới trong vòng 28 năm qua cho thấy, trong những năm sốt nóng lên tới mức “đỉnh” như năm nay, ba tháng cuối năm bao giờ cũng là thời gian thị trường thế giới hạ nhiệt rất mạnh so với chín tháng đầu năm.

Cụ thể là, trong năm sốt nóng giá nguyên liệu thế giới đạt mức “đỉnh” 1981 trong chu kỳ sốt nóng thứ nhất (1980-1984), giá nguyên liệu phi lương thực, thực phẩm ba tháng cuối năm giảm 6,64% so với chín tháng đầu năm, còn mức giảm này ở nhóm hàng nguyên liệu lương thực, thực phẩm là 6,82%. Tiếp theo, trong năm sốt nóng giá nguyên liệu thế giới đạt mức “đỉnh” 1991 trong chu kỳ sốt nóng thứ hai (1988-1992), hai mức giảm tương ứng này là 4,98% và 3,15%, còn năm 1996 trong chu kỳ sốt nóng thứ ba gần đây nhất (1994-1997) là 6,09% và 9,39%.

Như vậy, tính bình quân ba năm này, gía hàng phi lương thực, thực phẩm trong ba tháng cuối năm giảm 5,92%, còn giá hàng lương thực, thực phẩm giảm 6,58%. Việc giá dầu mỏ thế giới sau rất nhiều tháng liên tục tăng đại nhảy vọt và liên tục đạt những kỷ lục mọi thời đại mới vào tháng 7 và “rơi tự do” trong tháng 8 vừa qua (giảm tới 13,57%) chẳng những kéo theo giá của hàng loạt nguyên liệu có nguồn gốc từ dầu mỏ, mà cả giá hàng loạt các mặt hàng khác cũng giảm, còn ở trong nước, sau khi tăng đại nhảy vọt 31% giá xăng dầu, giá của mặt hàng chiến lược này đã được điều chỉnh giảm 2 lần chỉ trong vòng hai tuần lễ giữa và cuối tháng 8 vừa qua có lẽ chỉ mới là “khúc dạo đầu” báo hiệu một xu thế vận động rất đáng mừng này. Còn ở thời điểm hiện tại, triển vọng u ám của kinh tế thế giới chắc chắn sẽ là nguyên nhân khiến cho giá nguyên liệu thế giới “mềm hơn.”

- Thứ ba, trong điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế đang hạ nhiệt, tức là tốc độ tăng thu nhập của đông đảo người lao động cũng bị ảnh hưởng theo, việc tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng liên tục cao ngất ngưởng trong những tháng qua cũng báo hiệu sức mua của thị trường xã hội đang bị suy yếu và đây cũng là yếu tố có tác dụng kiềm chế lạm phát.

Cụ thể, các số liệu thống kê tám tháng qua cho thấy, với 609,2 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với cùng kỳ năm 2007 cao ngất ngưởng ở mức 30%, nhưng loại trừ yếu tố tăng giá thì con số này “co lại” chỉ còn 6,4%. Điều này có nghĩa là, rất đông đảo người tiêu dùng đang phải “dốc túi” chi tiêu cho nhu cầu đời sống thường nhật, cho nên chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức mua xã hội trong những tháng tới.

Nói tóm lại, tiếp sau những kết quả ngày càng khả quan hơn trong kiềm chế lạm phát trong ba tháng trở lại đây, cho dù trong đó có phần bắt nguồn từ những nguyên nhân không mong muốn, nền kinh tế đang đứng trước triển vọng sẽ đạt được những kết quả còn lớn hơn nữa, cho nên có lẽ đây đã là thời điểm thích hợp cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để tháo gỡ những khó khăn chồng chất đang đè nặng lên hầu như tất cả các ngành sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hơn để đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn trong những tháng còn lại của năm 2008 đầy khó khăn này.