Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

DNNVV Việt Nam: Vai trò, thách thức và triển vọng (13/10)

06/08/2010 - 31 Lượt xem

Trong bối cảnh như vậy, lạm phát xuất hiện, phát triển và trở thành một yếu tố khó kiểm soát, tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế và đến từng doanh nghiệp. 

Thời gian qua, Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có 285.900 doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV đã đăng ký mới với số vốn đăng ký 1.233.000 tỷ đồng, đưa tổng số các doanh nghiệp trong cả nước lên 349.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243 người có 1 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 doanh nghiệp trên 20 người dân và so với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp. 

DNNVV với quy mô nhỏ và vừa, với mức độ đầu tư không lớn, linh hoạt, rất phù hợp cho phát triển kinh tế dân doanh. DNNVV là phương thức phù hợp và hữu hiệu để huy động nguồn lực từ dân cho phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp này là phương thức tạo việc làm, thu nhập tại chỗ hữu hiệu cho người dân. Đầu tư cho một chỗ làm việc trong các DNNVV lại rất thấp so với doanh nghiệp lớn. DNNVV có vai trò quan trọng đặc biệt đối với người dân ở nông thôn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn và có vai trò quan trọng trong việc thay đổi cấu trúc của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên linh hoạt, dễ thích ứng với những biến động của kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, sự phát triển của các DNNVV hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, các DNNVV thường hoạt động với mục tiêu hướng nội, trong phạm vi không gian nhỏ bé, năng lực cạnh tranh còn yếu kém với một số khó khăn và hạn chế chủ yếu. Theo ông Lê Quang Mạnh - Cục phát triển DNNVV thì những khó khăn được thể hiện như sau: 
 
Thứ nhất, quản lý kinh doanh kém. Những nghiên cứu cho thấy những người chủ doanh nghiệp thuộc khu vực này có trình độ hộc vấn ở mức khá thấp. Phần lớn các DNNVV phát triển kinh tế hộ gia đình, nhiều doanh nghiệp vẫn quản lý doanh nghiệp theo kiểu hộ gia đình. Đây là một khó khăn lớn của các DNNVV trong cạnh tranh.

Thứ hai, công nghệ lạc hậu khá phổ biến trong các DNNVV. Do thói quen tư duy và do hạn chế về đầu tư, DNNVV thường đầu tư dần, mỗi năm mua một vài loại máy, thiết bị và khi thấy không ổn thì cũng thay thế dần. Điều này làm cho máy móc thiết bị đang được sử dụng trong các DNNVV trở nên chắp vá, không đồng bộ.

Thứ ba, các DNNVV khó tiếp cận các nguồn tín dụng. Khó khăn này đến cả từ hai phía. Từ phía doanh nghiệp, do những hạn chế về nhân lực và quản lý các DNNVV gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng các dự án đầu tư. Từ phía ngân hàng cũng có những trở ngại. Các dự án vay vốn từ các DNNVV là dự án có quy mô nhỏ. Nhiều ngân hàng ngại cho vay vì chi phí cho thủ tục, thẩm định cao, rủi ro cao. Về nhận thức, nhiều ngân hàng thương mại chưa đánh giá đúng tầm quan trọng đặc biệt của khu vực DNNVV.

Thứ tư, do thiếu thông tin. DNNVV thiếu nhân lực, thiếu phương tiện để khai thác và sử dụng thông tin. Hơn nữa chủ các DNNVV chưa nhận thức đúng và có thói quen trong việc thu thập, xử lý thông tin khi cần đưa ra quyết định. Bởi lý do này, DNNVV rất ít đầu tư cho hoạt động thông tin.  

Ngoài những khó khăn, yếu kém của bản thân DNNVV, còn một số khó khăn khách quan hạn chế sự phát triển như: Về nhận thức, mặc dù Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng trong quá trình vận dụng vào thực tế công tác trợ giúp phát triển DNNVV vẫn chưa nhận được sự quan tâm thích đáng của các Bộ, ngành và địa phương. Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với xu thế và bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hệ thống tổ chức xúc tiến phát triển DNNVV từ cấp trung ương đến địa phương đến địa phương cho đến nay mới chị hình thành bước đầu và năng lực còn yếu, chưa đáp ứng nhu câu của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. 

Xét từ góc độ tác động của lạm phát, khủng hoảng kinh tế có thể chia các DNNVV thành ba nhóm như sau: Thứ nhất, là những doanh nghiệp bị tác động mạnh, đang hết sức khó khăn (chiếm 20%). Thứ hai, là những doanh nghiệp bị lạm phát và khủng hoảng kinh tế tác động nhiều, hiện đang ở trong tình trạng khó khăn, sản xuất, kinh doanh bị sụt kém (chiếm 60%). Thứ ba, là những doanh nghiệp ít bị tác động hoặc thậm chí vẫn tìm được cơ hội phát triển trong điều kiện lạm phát (chiếm 20%).

Ông Lý Đình Sơn – Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội DNNVV Việt Nam cho biết, lạm phát và khủng hoảng kinh tế tác động mạnh qua những yếu tố căn bản sau: một là lạm phát và khủng hoảng kinh tế làm thay đổi mạnh và khó lường giá cả của các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Sự thay đổi thất thường của giá xăng, dầu, sắt thép…trong thời gian qua đã làm đảo lộn các kế hoạch, dự định của doanh nghiệp. Hai là, lạm phát khủng hoảng kinh tế làm cho lãi suất ngân hàng tăng lên cao, rất cao đồng thời khả năng vay vốn ngân hàng của các DNNVV vốn đã rất hạn chế trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Ba là, lạm phát làm cho giá cả các sản phẩm tiêu dùng tăng mạnh, đời sống của đại bộ phân nhân dân gặp khó khăn. Hệ quả là sức mua của dân giảm, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Bốn là, lạm phát làm thay đổi mạnh và thất thường tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với những đồng tiền mạnh trên thế giới như USD, EUR…Tình hình này cũng đẩy các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu bị lao đao. 

Theo luật gia Vũ Xuân Tiền - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam, không có những giải pháp chung nhất nhằm hỗ trợ DNNVV trước những thách thức lớn mới phát sinh. Ngược lại, cần nghiên cứu để đưa ra những giải pháp ở hai phạm vi: phạm vi tự giải quyết ở từng doanh nghiệp và phạm vi của Chính phủ. Theo đó, các DNNVV Việt Nam cần làm ngay những việc sau: rà soát, cải tổ hệ thống quản lý, tạo ra sự minh bạch đến mức cao nhất trong quản lý điều hành doanh nghiệp; cải cách triệt để phương thức quản lý doanh nghiệp; tăng cường hơn nữa sự hợp tác liên doanh, liên kết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.

Từ đó, ông cũng đưa ra kiên nghị ba giải pháp sau: thứ nhất, triển khai kịp thời và đồng bộ những biện pháp nhằm trợ giúp pháp lý cho các doanh nghiệp nói chung trong đó đặc biệt quan tâm tới các DNNVV. Thứ hai, tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV cho giai đoạn 2009 – 2013. Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các DNNVV tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, học tạp kinh nghiệm ở nước ngoài.