Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tháng 10/2008

06/08/2010 - 179 Lượt xem

TỔNG HỢP TIN KINH TẾ THÁNG 10/2008

1. Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ môi

- Chỉ số giá tiêu dùng: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước. So với cùng kỳ năm 2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 26,72%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 21,64%. Giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 tăng 23,15%

- Sản xuất công nghiệp tăng chậm lại: Giá trị sản xuất công nghiệp ước tính tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước (tháng 9 tăng 16%), trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,5%, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 21,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,8%.

- Sản xuất nông nghiệp khả quan: Hầu hết các địa phương đều đảm bảo kế hoạch gieo trồng, thu hoạch lúa vụ mùa, với năng suất khá cao. Về chăn nuôi, tốc độ tái đàn sau dịch bệnh còn chậm do giá thức ăn và con giống vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp tháng này chịu ảnh hưởng liên tiếp của bão lũ tại các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ, đã làm nhiều ha lúa và hoa màu bị mất trắng, hàng nghìn ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản bị ngập và hư hỏng; nhiều gia súc và gia cầm bị chết và cuốn trôi.

- Xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, nhập khẩu tăng: Kim ngạch xuất khẩu tháng 10/2008 ước tính đạt 5,1 tỷ USD, giảm 3,3% so với tháng trước do lượng và giá xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu giảm. Tính chung 10 tháng năm 2008, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 5,8 tỷ USD, tăng 5,2% so với tháng trước. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước. Nhập siêu ước tính 700 triệu USD, cao hơn mức 237 triệu USD của tháng trước. Tính chung 10 tháng năm nay, nhập siêu 16,3 tỷ USD, tăng 66,2% so với cùng kỳ năm trước, bằng 30,3% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.

- FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam: 10 tháng đầu năm có 953 dự án đăng ký mới, tổng số vốn đăng ký với và đăng ký bổ sung đạt 59,3 tỷ USD, tuy giảm 16,7% về số dự án nhưng tăng 497,7% về vốn so với cùng kỳ 2007. Tổng FDI thực hiện ước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007.

- Thu ngân sách vượt dự toán năm: Tổng thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 102,2% dự toán năm. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2008 ước tính đạt 87,8% dự toán năm

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng: 10 tháng đạt 782,3 nghìn tỷ đồng, tăng 30,7% so với cùng kỳ 2007. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng năm nay tăng 6,1% so với cùng kỳ 2007.

2. Kiềm chế lạm phát, và nguy cơ thiểu phát

Theo Tổng cục Thống kê chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tháng 10 giảm 0,19% so với tháng 9. Giá tiêu dùng tháng 10 đã giảm do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ các biện pháp kiềm chế lạm phát đã phát huy tác dụng. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng. Các biện pháp ổn định tỷ giá, cải thiện cán cân thanh toán tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối để tăng lòng tin và cải thiện tính thanh khoản của quốc gia…, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đầu từ chứng khoán, kiểm tra tín dụng đầu tư bất động sản; hỗ trợ thanh khoản của các ngân hàng thương mại.

Việc chỉ số giá tiêu dùng giảm so với tháng 9 đã xuất hiện một số ý kiến cho rằng nguy cơ giảm phát đang tới gần, và vì vậy cần nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm lãi suất và tăng tín dụng) và kích cầu (giảm thuế hay tăng chi tiêu của Chính phủ). Tuy nhiên, theo các chuyên gia, từ cả góc độ lý thuyết lẫn thực tiễn, nỗi lo giảm phát ở Việt Nam hiện nay là thiếu cơ sở. Do vậy, Chính phủ cần hết sức thận trọng trước những gợi ý chính sách xuất phát từ nỗi lo không chính đáng này. Đầu tiên, cần hiểu thế nào là giảm phát. Giảm phát (deflation) được định nghĩa là tình trạng giảm giá phổ biến trong nền kinh tế. Điều này có nghĩa là nếu giá hàng hóa hay dịch vụ trong một số khu vực của nền kinh tế suy giảm, thì mặc dù điều đó có thể gây khó khăn cho những nhà sản xuất trong các khu vực này, nhưng lại chưa phải là giảm phát, và do đó nhìn chung không phải là vấn đề đối với toàn nền kinh tế.

Xét về các yếu tố thực tiễn, các chuyên gia kinh tế cho rằng, còn quá sớm để lo giảm phát vì:

Thứ nhất, nhìn vào số liệu chi tiết CPI của Việt Nam trong thời gian gần đây, có thể thấy rằng chưa hề có dấu hiệu của tình trạng giảm giá phổ biến trong nền kinh tế. Cụ thể là CPI của 10 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 vẫn ở mức rất cao 23,15%. Hơn nữa, khi CPI trong tất cả các tháng từ đầu năm đến nay so với cùng kỳ năm ngoái luôn duy trì ở mức trên dưới 20% thì nỗi lo lớn nên dành cho lạm phát chứ không phải giảm phát.

Thứ hai, ngay cả trong tháng 10 khi CPI giảm nhẹ 0,19% so với tháng 9 nhờ sự giảm giá của ba nhóm hàng: hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,42%), nhà ở và vật liệu xây dựng (-0,08%), và phương tiện đi lại, bưu điện (-0,94%) thì tất cả bảy nhóm hàng còn lại vẫn đều tăng giá tuy không nhiều. Hơn nữa, nếu nhìn sâu hơn một chút thì thấy việc giảm giá của ba nhóm hàng kể trên chủ yếu nhờ vào yếu tố khách quan (giá dầu thế giới giảm mạnh) và yếu tố có tính thời vụ (vụ hè thu thắng lợi). Điều này có nghĩa là sự giảm nhẹ của CPI thiếu tính bền vững vì một mặt, nó có thể bị đảo ngược khi yếu tố khách quan và thời vụ không còn; và mặt khác, cũng chưa đủ cơ sở để khẳng định rằng kết quả này có được chỉ là từ chính sách.

Thứ ba, xét về các nguyên nhân có thể gây nên tình trạng giảm phát. Về mặt lý thuyết, giảm phát có thể xảy ra bởi một trong ba nguyên nhân. Một là, do tổng cầu sụt giảm, cụ thể là sự suy giảm mạnh của sức mua khiến người bán phải hạ giá để tìm đủ người mua. Hai là, do tổng cung đột nhiên tăng, chẳng hạn nhờ vào việc năng suất được cải thiện nhanh chóng làm giảm giá thành. Trong lịch sử, có thể nói giảm phát chưa bao giờ là hệ quả của tổng cung tăng nhanh, mà nếu có đi chăng nữa thì việc tăng tổng cung thường dẫn tới sự tăng trưởng chứ không phải là suy thoái kinh tế. Ba là, giảm phát có thể đồng thời do hai nguyên nhân trên gây ra.

Vậy tóm lại, nguyên nhân chủ yếu của giảm phát là do tổng cầu sụt giảm, kéo theo suy thoái kinh tế (tốc độ tăng trưởng âm) và thất nghiệp. Từ kết luận này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam sẽ thấy rằng, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2008 ước đạt 6,5% thì tuy nền kinh tế đã tăng trưởng chậm lại nhưng chưa hề có dấu hiệu suy thoái, tức là chưa có tình trạng giảm phát.

Vấn đề cơ bản của nền kinh tế Việt Nam từ nay đến cuối năm 2008 và cả năm 2009 vẫn là bình ổn kinh tế vĩ mô, trong đó chống lạm phát là ưu tiên hàng đầu. Điều này có nghĩa là cả chính sách tiền tệ và tài khóa cần được thắt chặt một cách đúng đắn. Một số ví dụ để bàn về tính đúng đắn của chính sách thắt chặt tiền tệ, như: mặc dù rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh đang vô cùng khó khăn trong việc tiếp cận với tín dụng ngân hàng, nhưng điều này không hẳn là nguyên nhân của tình trạng khan hiếm tín dụng trong tổng thể nền kinh tế. Mức tăng tín dụng 30%/năm không hề thấp đối với một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ trên dưới 7% như Việt Nam hiện nay.

Vấn đề của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam vì vậy không phải là tình trạng khan hiếm tín dụng mà là phân bổ tín dụng kém hiệu quả và thiếu cẩn trọng. Khi một lượng lớn tín dụng ngân hàng được đổ vào hoạt động đầu cơ bất động sản và chứng khoán đầy rủi ro thì tất nhiên là tín dụng dành cho hoạt động sản xuất vốn ổn định và bền vững hơn sẽ bị suy giảm đáng kể. Tương tự như vậy, khi hàng chục ngàn tỉ đồng được sử dụng để cứu trợ cho các tập đoàn nhà nước thì cơ hội tiếp cận tín dụng của hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn doanh nghiệp dân doanh sẽ bị từ chối. Thêm vào đó là cách áp đặt hạn mức tín dụng 30% cho toàn hệ thống ngân hàng trên thực tế theo phương châm “một vài người ốm bắt cả làng uống thuốc” mà không dựa vào những tiêu chí có tính chuẩn mực như hệ số đủ vốn (theo tiêu chuẩn Basel) hay trình độ quản lý rủi ro của từng ngân hàng cụ thể

Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng, nếu GDP tiếp tục đi xuống, chỉ số giá tiếp tục giảm nhanh, tình hình sản xuất, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa đình trệ kéo dài hoặc phá sản tăng lên, thì chúng ta phải áp dụng và nghĩ ngay đến thiểu phát. Vì nếu những vấn đề này xảy ra thì khả năng đình trệ sản xuất, khả năng giảm sức mua, khả năng giảm phát là điều dễ xảy ra. Dù là giảm phát hay lạm phát thì cũng rất nguy hiểm. Lạm phát làm cho giá cả tăng cao, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo doãng ra... và "nặng" hơn là gây ra khủng hoảng kinh tế. Còn thiểu phát sẽ làm cho nền kinh tế bị suy thoái, sức mua kém, doanh nghiệp phá sản, thất nghiệp tăng...

3. Sự vận hành của cơ chế quản lý giá

Một trong những vấn đề được đặt ra tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá XII là chính sách quản lý thị trường giá cả. Chính sách quản lý thị trường giá cả còn nhiều bất cập, không theo kịp thực tế, thiếu minh bạch và thiếu sự điều chỉnh kịp thời gây tác động xấu, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Đơn cử là: chủ trương dừng xuất khẩu gạo trong khi giá gạo thế giới đang lên, và đẩy mạnh xuất khẩu gạo khi giá xuống gây thiệt hại lớn cho những người nông dân. Ngoài ra, nạn buôn bán hàng giả không được ngăn chặn và nghiêm trị (đặc biệt là phân bón giả, thuốc trừ sâu giả) đã khiến hàng chục vạn nông dân lao đao, thậm chí sạt nghiệp…

Một ví dụ điển hình khác về sự bất hợp lý trong chính sách giá cả so với thị trường thế giới là giá xăng dầu, gas. Giá xăng dầu thế giới liên tục giảm, kéo theo mức giảm giá của nhiều loại nguyên liệu đầu vào khác. Thế nhưng cho đến nay, nhiều mặt hàng bán lẻ trong nước như xăng dầu, gas... vẫn chưa có mức giảm tương ứng. Theo các chuyên gia, thực trạng này là do không có sức ép cạnh tranh từ thị trường trong nước và thiếu cơ chế giám sát hiệu quả từ Nhà nước... Rõ ràng, đây là hệ quả của việc dự báo, điều hành lúng túng, và đặc biệt là tình trạng độc quyền còn đang tồn tại.

Nếu xét riêng đối với mặt hàng xăng dầu, có thể dễ dàng lý giải khi giá bán lẻ tăng, vì khi giá dầu thế giới tăng kéo giá bán lẻ trong nước tăng theo, trừ trường hợp trước đây Chính phủ bù lỗ để bình ổn giá. Nhưng từ thời điểm 16-9-2008, khi Chính phủ chấm dứt bù lỗ, các doanh nghiệp chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường thì giá cả phải linh hoạt, nghĩa là khi giá thế giới lên thì giá trong nước cũng lên và khi giá thế giới giảm thì giá trong nước phải giảm. Tuy nhiên, ngay cả khi giá dầu thế giới hiện chỉ còn dưới 70 USD/ thùng so với thời kỳ đỉnh điểm ở mức 147 USD/thùng vào tháng 7-2008, tương đương với mức giảm trên 50% thì giá xăng bán lẻ trong nước tới thời điểm này chỉ giảm từ 19.000 đồng/lít xuống 15.500 đồng, tức là giảm khoảng 20%. Điều đó cho thấy đang có sự chênh lệch đáng kể giữa mức độ giảm giá trong nước với giá thế giới.

Tại Việt Nam, nhìn vào cấu trúc thị trường kinh doanh xăng dầu thấy hiện chỉ có 11 đầu mối được phép nhập khẩu xăng dầu, trong đó Petrolimex chiếm khoảng 60% thị phần, tức đơn vị này đang thống lĩnh thị trường. Một khi có khả năng chi phối thị trường thì Petrolimex hoàn toàn có thể định giá bán cao hơn giá thành một mức đáng kể và đương nhiên các đơn vị khác sẽ được “ăn theo”. Trong thời gian giá dầu thế giới giảm mạnh vừa qua Petrolimex không giảm giá bán lẻ tương ứng bởi do không có sức ép của cạnh tranh, trong khi nếu giảm theo kiểu “nhỏ giọt” sẽ được lợi rất nhiều. Câu chuyện của xăng dầu tương tự những mặt hàng khác như gas, thức ăn chăn nuôi..., nhưng chỉ có điều thay vì đơn vị thống lĩnh thị trường là một doanh nghiệp nhà nước thì ở một số lĩnh vực là doanh nghiệp tư nhân.

Điểm giống nhau cơ bản của những trường hợp này là sự vận hành của cơ chế thị trường đã bị bóp méo và sự bóp méo này không được Nhà nước sửa chữa một cách thích đáng. Trong trường hợp xăng dầu, việc chỉ cho phép 11 đơn vị làm đầu mối nhập khẩu đã hạn chế cạnh tranh. Song song việc duy trì quyền lực thị trường nhưng lại không bị giám sát cũng đã hạn chế vai trò điều tiết của Nhà nước. Tương tự đối với ngành thức ăn chăn nuôi, quyền lực thị trường đối với một số công ty không được giám sát chặt chẽ nên mới xảy ra tình trạng như vậy. Ở các nước, trong một số lĩnh vực, khi công ty có quyền lực chi phối thị trường thì nhà nước sẽ giữ vai trò điều tiết giám sát để đảm bảo cho nó có một tỉ lệ lợi nhuận thỏa đáng, nhưng đồng thời hạn chế việc lạm dụng quyền lực thị trường để làm tổn hại đến lợi ích người tiêu dùng. Trong khi đó, việc thực thi Luật cạnh tranh ở VN chưa hiệu quả, vì vậy chưa bảo vệ được phúc lợi của người tiêu dùng nên để các công ty thống lĩnh thị trường lạm dụng vị thế định giá sản phẩm quá cao.

Hầu hết doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên đều đưa ra lý do để trì hoãn việc giảm giá là do đã lỡ ký hợp đồng ở giá cao nên bây giờ không thể bán giá thấp. Tuy nhiên theo ý kiến của các chuyên gia, có thể chấp nhận một “độ trễ” nhất định trong việc điều chỉnh giá xăng để theo kịp với đà giảm giá trên thị trường thế giới, nhưng khi trễ nhiều quá thì lại khó chấp nhận. Ở câu chuyện giá xăng dầu, bên cạnh độ trễ trong điều chỉnh giá thì trong thời gian được Chính phủ bù lỗ, mọi doanh nghiệp đều được bù lỗ bất kể chi phí cao hay thấp. Điều đó có nghĩa chúng ta đã cào bằng giữa công ty làm ăn có hiệu quả với công ty kém hiệu quả. Vì vậy, nếu lỗ càng lớn thì bù lỗ càng nhiều, trong khi nguyên nhân dẫn đến thua lỗ có thể do làm ăn kém hiệu quả chứ không phải do tình hình thị trường. Từ đó dẫn đến tâm lý ỷ lại trong các công ty đầu mối nhập khẩu xăng dầu là không quan tâm nhiều đến việc giảm chi phí thông qua việc đàm phán giá mua hay tiết giảm chi phí. Do đó, việc họ đưa ra các lý do để trì hoãn hoặc giảm không tương ứng với giá thế giới là hoàn toàn không thuyết phục.

Từ câu chuyện xăng dầu có thể thấy vấn đề cốt lõi là cơ chế chứ không phải là thị trường. Có thể khẳng định việc trì hoãn giảm giá là do không có sức ép cạnh tranh từ thị trường trong nước và thiếu cơ chế điều tiết giám sát hiệu quả của Nhà nước. Hệ quả là những công ty có thế lực thị trường đã lạm dụng vị thế của mình trong việc quyết định giá bán, trong khi tất cả các công ty khác “ăn theo”, điều này dẫn đến một mặt bằng giá cao và chậm điều chỉnh như chúng ta đã thấy.

Đúng là quyền lợi người tiêu dùng đã bị xem nhẹ dưới góc độ cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng. Luật cạnh tranh ở thời điểm này cũng đã tạo ra hành lang pháp lý để có thể can thiệp đối với những trường hợp tương tự, nhưng trên thực tế các cơ quan thực thi Luật cạnh tranh của VN chưa được trang bị đủ năng lực và vị thế để đưa Luật cạnh tranh vào cuộc sống. Một vấn đề nữa là liệu chúng ta có chấp nhận cho kiểm tra, giám sát các tập đoàn? Bởi nếu chấp nhận điều này cũng có nghĩa là phải minh bạch, công khai hóa tất cả hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Chẳng hạn, khi nói đến giá xăng dầu, điện, gas... thì phải công khai hóa cơ cấu giá thành, khi đó cơ quan quản lý mới biết được là với giá bán như hiện nay doanh nghiệp có thật sự chèn ép người tiêu dùng hay không.

4. Tài chính - tiền tệ

a. Các quyết định mới ban hành của Ngân hàng Nhà nước về vấn đề lãi suất

Nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, chủ động hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành 4 quyết định quan trọng và văn bản chỉ đạo đi kèm về việc thực hiện những chính sách mới về lãi suất, tiền gửi dự trữ bắt buộc và cơ chế mới cho tín phiếu bắt buộc…, cụ thể như sau:

- Quyết định số 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam; theo đó, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Với quyết định này, lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 (theo ngày có hiệu lực của quyết định trên) tối đa là 19,5%/năm, thay cho mức 21%/năm trước đó.

- Quyết định số 2321/QĐ-NHNN, ngày 20/10/2008, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm. Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh như trên sẽ tạo một thuận lợi lớn, hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- Quyết định số 2318/QĐ-NHNN, ngày 20/10/2008 về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm. Những điều chỉnh trên cũng góp phần hỗ trợ giảm bớt chi phí vốn cho các ngân hàng hàng. Điều này cũng cho thấy Ngân hàng Nhà nước dường như đang dần nới lỏng hơn chính sách tiền tệ, sau một thời gian thắt chặt.

- Quyết định số 2317/QĐ-NHNN về việc thanh toán trước hạn tín phiếu NHNN bắt buộc. Theo đó, kể từ ngày 21/10/2008, Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức bắt buộc phát hành kể từ ngày 17/3/2008 theo nhu cầu rút trước hạn của các tổ chức tín dụng. Đây cũng là một cơ chế linh hoạt mới, tạo điều kiện để hỗ trợ cho những ngân hàng thương mại có khó khăn về nguồn vốn và thanh khoản, đặc biệt là vào những tháng cuối năm, nhiều hợp đồng tiền gửi tập trung đáo hạn, yêu cầu năng lực thanh khoản cao.

Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cũng được chỉ đạo phải đáp ứng vốn cho nền kinh tế, trên cơ sở khả năng huy động vốn ở trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả và khả năng trả nợ đúng hạn.

Theo các chuyên gia, các quyết định điều hành chính sách tiền tệ của NHNN có tác động lớn tới thị trường tiền tệ và là tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam. Lãi suất cơ bản giảm dần cho thấy lạm phát đang ngày càng được kiềm chế, thị trường ổn định hơn và xu hướng dịch chuyển vốn giữa các ngân hàng không còn. Chính điều này sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho các ngân hàng trong hoạt động và giảm áp lực lãi vay với doanh nghiệp khi tiếp cận vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh, đặc biệt là thời điểm cuối năm khu mùa vụ kinh doanh đang tăng cao.

Bên cạnh đó, lãi suất cơ bản giảm dần sẽ chia sẻ khó khăn với ngân hàng và doanh nghiệp. Trong 3 tháng gần đây, các ngân hàng đã bơm mạnh vốn ra thị trường, với kế hoạch giải ngân từ nay đến cuối năm lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng, nhưng tiến độ cho vay vẫn rất chậm, mà rào cản chính là lãi suất đầu ra cao. Doanh nghiệp tín toán không có lãi khi vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh nên đã thu hẹp dần kế hoạch hoạt động. Nhưng khi lãi suất cơ bản giảm thì sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn.

b. Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá VNĐ/USD đã có những diễn biến hết sức phức tạp theo chiều hướng tăng. Trước sự đột biến này, các chuyên gia kinh tế đã có những phân tích cũng như đánh giá nguyên nhân và khả năng ứng phó của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới. Theo đó, có 4 nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đợt biến động mạnh về tỷ giás.

Thứ nhất, những chính sách của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện để các ngân hàng giảm lãi suất, cung thêm tiền vào lưu thông. Từ đây có tâm lý lo ngại đà tăng lạm phát có thể tái diễn, VND mất giá nên một số người dân có xu hướng mua USD vào để dự trữ.

Thứ hai, thời gian qua có một số nhà đầu tư nước ngoài đã cơ cấu lại danh mục đầu tư chứng khoán và có nhu cầu chuyển đổi ra ngoại tệ làm tăng cầu USD trên thị trường.

Thứ ba, một số nhà nhập khẩu thực hiện việc thu gom USD đón đầu để chuẩn bị thanh toán vào thời điểm cuối năm – thời điểm mà thị trường liên ngân hàng tại Việt Nam thường có biến động hơn so với các thời điểm trong năm. Từ đây cũng góp phần thúc đẩy cầu tăng.

Thứ tư, có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với diễn biến tăng giá của đồng USD so với các đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Diễn biến này cũng tác động nhất định đến tâm lý người dân, nhà đầu tư trong nước, thúc đẩy họ mua ngoại tệ vào và kích thêm cầu.

Những yếu tố trên cùng tác động làm cầu USD tăng đột biến, trong khi cung lại tương đối ổn định và có cấu trúc tương đối “cứng nhắc”: do chỉ có một số ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh ngoại hối là nguồn cung ứng chính của thị trường, nên dẫn đến việc nguồn cung bị thiếu hụt mang tính cực bộ tại một số ngân hàng. Trước sức cầu tăng, các ngân hàng chủ động nâng giá USD lên trong những ngày qua và thị trường tự do cũng “bám theo” diễn biến này.

Bên cạnh đó, theo nhận định của các chuyên gia, có yếu tố đầu cơ và tác động tâm lý. Những tín hiệu VND xuống giá từ chính sách tiền tệ mới, lo ngại ảnh hưởng lạm phát, thấy tín hiệu mua ngoại tệ nhiều từ khối nước ngoài… dễ tạo tâm lý đám đông. Tuy nhiên, yếu tố tâm lý và đầu cơ đó chủ yếu ở người dân và thị trường bên ngoài. Còn với các doanh nghiệp, có thể loại trừ khả năng có đầu cơ. Trên thực tế có những doanh nghiệp mua vào ngoại tệ để thanh toán trước, do thấy tỷ giá đang thấp và dự phòng khả năng có biến động thường thấy vào cuối năm. Còn trường hợp các doanh nghiệp đầu cơ là khá hạn chế.

Một nguyên nhân khác được quan tâm là có dấu hiệu rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Vài tuần qua, các nhà đầu tư nước ngoài tăng bán chứng khoán để thu hồi vốn về công ty mẹ ở chính quốc trong thời gian khủng hoảng. Nhu cầu ngoại tệ dành cho khối này vào khoảng vài trăm triệu đôla. Các nhà đầu tư thấy nước ngoài mua cũng có tâm lý đám đông mua theo, dẫn đến cầu tăng”. Tuy nhiên, việc rút vốn có thể tập trung ở dòng vốn đầu tư gián tiếp, bởi hoạt động này không dễ thực hiện ở dòng vốn đầu tư trực tiếp. Và điểm lo ngại là sự chuyển dịch đó sẽ tạo tâm lý không tốt tới tỷ giá, còn về khối lượng của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng không phải là lớn và hoàn toàn có thể can thiệp được.

Trên thực tế, nguồn ngoại tệ đang dồi dào, đặc biệt sau sự kiện các ngân hàng theo nhau rút tiền gửi từ nước ngoài về nhằm bảo toàn tài sản trước cơn khủng hoảng tài chính thế giới. Một số ngân hàng cổ phần thậm chí rút toàn bộ. Tính sơ sơ, số tiền rút về nước trong hai tuần qua không dưới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, theo đánh giá cung cầu ngoại tệ từ nay đến cuối năm không quá căng thẳng, diễn biến tỷ giá sẽ phụ thuộc nhiều vào chính sách của cơ quan quản lý nhà nước, căn cứ vào tình hình xuất nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế. Theo dự báo tỷ giá sẽ ổn định trở lại và duy trì ở mức cao theo trần của biên độ. Mức ngân hàng thanh toán xuất nhập khẩu lớn nhất trong hệ thống hiện nay cho là hợp lý thời gian tới là 1 USD = 17.000 VND.

Theo tính toán, thời gian qua tỷ giá ở mức thấp, thậm chí có hướng ép tăng lên để hỗ trợ cho xuất khẩu và với một mức tỷ giá cao một chút là cần thiết cho những doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Một nhận định chung là thời gian qua nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn do chi phí đầu vào trong nước tăng, lãi suất vay vốn cao, giá hàng hóa bán ra thế giới có xu hướng giảm do ảnh hưởng từ khủng hoảng… Trước những vấn đề đó, nếu tỷ giá không có điều chỉnh hợp lý để hỗ trợ thì sẽ càng thêm khó khăn. Trước khả năng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài rút khỏi thị trường, các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng cho rằng cũng chỉ cần khoảng 3 – 4 tỷ USD là có thể cân đối được. Tuy nhiên trong sự cân đối này, cũng như trước khả năng sức cầu chung tăng lên, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngân hàng thương mại.

5. Xuất khẩu giảm - nhập siêu tăng

Theo Bộ Công thương, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lan rộng đã khiến nhu cầu hàng hóa trên thị trường thế giới yếu đi và giá cả sụt giảm. Xuất khẩu hàng hóa trong tháng 10 của Việt Nam chịu tác động rất lớn bởi xu hướng đó: kim ngạch xuất khẩu trong tháng 10 giảm 3,3% so với tháng 9 (nhưng vẫn tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007). Trong khi đó, nhập siêu tháng 10 tăng mạnh (khoảng 700 triệu đô la Mỹ so với 237 triệu đô của năm 2007).

Để đạt được chỉ tiêu đưa tổng kim ngạch XK cả năm lên 65 tỷ USD, tăng gần 4 tỷ USD so với kế hoạch đặt ra là 61,2 tỷ USD, cần có nỗ lực rất lớn từ nhiều phía vì thực tế là có nhiều mặt hàng “thoái lui” về kế hoạch. Ví dụ như vơí ngành dệt may, riêng tháng 9, XK dệt may đã có dấu hiệu chững lại và giảm sút. Sang tháng 10, sự giảm sút này đã bộc lộ rõ rệt khi 20 ngày đầu tháng, kim ngạch XK chỉ đạt 420 triệu USD, nghĩa là chỉ đạt trên 50% dự kiến ban đầu. Điều đáng nói nữa là, với tình hình đó, ông Vũ Đức Giang - chủ tịch hiệp hội dệt may - dự báo, XK của ngành dệt may trong năm 2009 sẽ chỉ có thể tăng trưởng ở mức tối đa là 5 – 7%. Một trong những mặt hàng được kỳ vọng có sự tăng trưởng ổn định, vững chắc là thủy sản. Tuy nhiên, ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản lại thẳng thắn cho rằng, tính đến ngày 20/10, XK thủy sản mới dừng ở con số 3,628 tỉ USD, như vậy kim ngạch XK cả năm 2008 chỉ là 4,4 tỉ USD chứ không phải 4,5 tỉ USD như kế hoạch đưa ra ban đầu. Năm 2009, sự tăng trưởng về XK thủy sản không thể vượt quá 10%. Lý do chính là thị trường xuất khẩu bị thu hẹp - nhiều hợp đồng “ách lại”. Khủng hoảng tài chính ở Mỹ và lan sang các nước châu Âu đã khiến cho thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam bị đình đốn. Theo điều tra, sản phẩm đồ gỗ tồn đọng không tiêu thụ được từ năm 2007 tại thị trường Mỹ và EU lên tới khoảng 30%. Vì thế, hợp đồng đặt hàng cho năm 2008 vào Việt Nam bị giảm đi rất nhiều. Thêm vào đó, một số quy định mới của Mỹ và EU về nguồn gốc xuất xứ quá hà khắc đã khiến cho việc khai thác chế biến sản phẩm XK của các DN Việt Nam khó khăn hơn rất nhiều.

Ngày 30/10, Bộ Công Thương đã chủ trì cuộc họp khẩn cấp với một số cơ quan ban, ngành, đặc biệt là các Hiệp hội ngành hàng, các tập đoàn, DN nhằm cập nhật tất cả những thông tin khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực XK, từ đó sớm đưa ra những đối sách kích cầu cho XK hai tháng cuối năm và những tháng đầu năm 2009.

Ngoài những khó khăn do điều kiện khách quan nêu trên, còn tồn tại những vấn đề đã trở thành “thường trực” đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Hầu như các hiệp hội ngành hàng, các tập đoàn, DN đều chung một nỗi khắc khoải- đó là vấn đề thuế, tỷ giá và lãi suất ngân hàng. Việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng trước đây đã khó, lãi suất lại quá cao, DN không thể kinh doanh để đủ trả lãi cho ngân hàng. Hiện nay, mặc dù lãi suất đã được điều chỉnh xuống mức thấp hơn nhưng vẫn chưa phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN trong giai đoạn khó khăn này.

Ngoài ra, mỗi ngành hàng đều có những khó khăn, vướng mắc riêng, nhưng lại có chung một điểm đó là đã “kêu” từ nhiều năm nay nhưng vẫn không được các cơ quan ban ngành chức năng tháo gỡ. Một vấn đề nổi cộm mà các hiệp hội ngành hàng, các tập đoàn, DN đặc biệt nhấn mạnh đó là việc cung cấp điện cho sản xuất. Những tháng qua, cả lượng điện và chất lượng điện đều không đạt, thế nhưng dự báo năm 2009 giá điện sẽ tăng, đây sẽ là gánh nặng chất thêm lên vai các DN trong bối cảnh cực kỳ khó khăn. Vì thế, đại diện các ngành hàng đều cho rằng, việc tăng giá điện phải có lộ trình tăng dần đều, nếu không các DN sẽ càng bị sức ép hơn.

Theo dự báo của lãnh đạo Bộ Công thương và các hiệp hội, sẽ có một cuộc cạnh tranh quyết liệt về chất lượng hàng hóa và giá cả để giành thị trường trong 3 tháng còn lại và trong năm 2009. Thế nhưng, một khi nhu cầu bị giảm mạnh thì hàng của các nước khác có thể sẽ “đổ” vào VN. Điều này đồng nghĩa, ngay tại thị trường nội địa, DNVN cũng sẽ phải cạnh tranh sống còn để tồn tại.

Hầu hết ý kiến của các hiệp hội đều cho rằng, XK đang bộc lộ nhiều yếu tố không thuận lợi, song khả năng hoàn thành chỉ tiêu XK năm 2008 là rất khả thi, nếu các bộ ngành chịu lắng nghe để kịp thời gỡ khó cho DN.

Trong tình hình hiện nay, các DN không nên đầu tư dàn trải mà cần phải đi vào chiều sâu, đảm bảo chất lượng hàng hóa để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối với các đối tác XK, cần tiến hành rà soát lại các hợp đồng dài hạn, xem lại khả năng thanh toán để tránh rủi ro. Trong trường hợp nghi ngờ, nên liên hệ ngay với các thương vụ để tiến hành xác minh.

Bộ Công Thương cũng đề nghị ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu. Các cơ quan chức năng, hiệp hội ngành hàng nên phát huy vai trò liên kết, chủ động phối hợp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh xuất khẩu để tăng trưởng xuất khẩu và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển .Ngoài sự góp sức của các bộ, ngành trong việc đa dạng hóa thị trường XK thì tự mỗi DN cũng cần chú trọng vấn đề này, tránh tình trạng “bỏ trứng vào một giỏ”.

Nguồn: VNEP, tháng 11/2008

Tài liệu tham khảo

1. Năm 2009 tiếp tục kiềm chế lạm phát, 16/10/2008 – Thông Tấn Xã Việt Nam

2. Kiềm chế lạm phát đạt được kết quả bước đầu quan trọng, 16/10/2008 – www.vietnamnet.vn

3. Ngân hàng Nhà nước triển khai loạt chính sách quan trọng, 21/10/2008 – Thời báo Kinh tế Việt Nam

4. Cơ chế đã không được vận hành hoàn hảo, 27/10/2008 - www.tuoitre.com.vn

5. 10 điểm chính kinh tế 10 tháng, 29/10/2008 – Thời Báo kinh tế Việt Nam

6. Quá sớm để lo giảm phát, 30/10/2008 – Thời báo kinh tế Sài Gòn

7. Bộ Công thương: bàn biện pháp tháo gỡ cho xuất khẩu, 31/10/2008 – Báo Công thương

8. Xuất khẩu bắt đầu bộc lộ khó khắn, 30/10/2008 – Thời báo Kinh tế Sài Gòn