Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thích ứng với thị trường (13/11)

06/08/2010 - 34 Lượt xem

Cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến sức mua của người tiêu dùng trên các thị trường mạnh như Mỹ, Châu Âu, Nhật giảm sút, do đó  các nhà sản xuất lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan... càng tăng cường sự cạnh tranh về giá cả hàng hoá bằng các biện pháp tối ưu. Cụ thể như sự thay đổi về công nghệ và phương pháp quản lý nhằm giảm giá thành, trong đó có chính sách hỗ trợ tín dụng với lãi suất thấp.

Có quan điểm cho rằng với tình hình lạm phát hiện nay (25%/năm), nhà kinh doanh dù có kinh doanh lãi 20%/năm, vẫn không thể bảo lưu giá trị vốn ban đầu. Lãi suất cho vay của ngân hàng 18% là thấp, còn mức lãi suất tiết kiệm 15% thì người gửi tiền tiết kiệm sẽ mua vàng để bảo toàn vốn. Nhưng theo quan điểm của người viết thì:

Thứ nhất, chỉ số giá tiêu dùng tăng do nhiều yếu tố: chi phí đầu vào tăng (như giá xăng dầu tăng ảnh hưởng sản xuất và vận chuyển hàng hoá), quan hệ cung cầu, quan hệ tiền tệ, tác động của đầu cơ kể cả sự thổi phồng về nhu cầu ảo... Do đó, chưa hẳn chỉ số giá tiêu dùng tăng là lạm phát, là mất giá trị tiền tệ.

Thứ hai, vàng để lâu không bị hư hỏng và dễ thanh khoản nên được người dân cất giữ như của để dành, nhưng vàng cũng là hàng hoá nên cũng bị chi phối bởi quan hệ cung cầu. Thời gian qua vàng tăng giá, nên mọi người cho rằng giữ vàng đảm bảo hơn, nhưng nếu mọi người trong xã hội đều giữ vàng trong nhà, không kinh doanh gì cả thì số vàng đó cũng không sinh lợi (về số lượng).

Thứ ba, Tiền đồng của Việt Nam so với USD nhiều năm qua có lúc tăng, có lúc giảm nhưng không đáng kể, chỉ dao động khoảng 5% trong năm nay. Có quan điểm là USD mất giá so với Euro và Yen Nhật, nên tiền VN cũng mất giá so với các loại ngoại tệ khác. Nhưng trong thực tế, kinh doanh toàn cầu sử dụng ngoại tệ thanh toán thì USD chiếm tới 50% trong tổng các loại tiền tệ thanh toán trên thế giới. Thực tế, tiền đồng của Việt Nam trong quan hệ thanh toán không lệ thuộc nhiều đến ngoại tệ khác mà chủ yếu thanh toán quốc tế bằng USD. Hơn thế nữa, USD mất giá so với một số ngoại tệ khác nhưng lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng Mỹ không quá 7%/năm. Vậy tại sao VND không mất giá so với USD mà lãi suất lại tới 18%/ năm? Vậy làm sao DN vay vốn ngân hàng có thể cạnh tranh trong thị trường hội nhập?

NHNN đã khẳng định sẽ không có sự phá sản hàng loạt đối với các DNNVV. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia nhận định nguy cơ phá sản vẫn “treo trên đầu” hàng ngày với các DN. Vì vậy, chúng ta nên phân loại DN, kích cỡ nào là vừa, như thế nào là nhỏ, phân tích ngành nghề kinh doanh, sản phẩm, thị trường của DN, xác định nguồn vốn và cơ cấu vốn của DN, mới có thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng, mức độ khó khăn của DN trong cơn bão tài chính toàn cầu và khả năng cạnh tranh của DN.

Trong kinh tế học, có một chỉ tiêu kinh doanh là C/O (Capital/Output) tức là hiệu quả việc sử dụng đồng vốn so với sản lượng và doanh số mà DN đạt được. Thời gian qua, nhiều DN đã đầu tư vốn cao hơn mức vốn cần thiết chẳng hạn đầu tư lớn vào nhà xưởng, thiết bị, nhưng hàng hoá lưu thông chậm, nguyên liệu dự trữ tồn kho quá mức so với quy trình sản xuất. Do đó, cơ cấu vốn bất hợp lý, vốn vay chiếm tỷ lệ cao so với vốn tự có của DN dẫn đến lãi suất tiền vay cũng chiếm tỷ lệ cao trong giá thành. Về công nghệ, nhiều nhà máy của DN Việt Nam nhập thiết bị rất hiện đại nhưng trình độ sử dụng thiết bị của lực lượng lao động Việt Nam quá kém nên chưa khai thác hết công suất của nhà máy. Chiến lược sản phẩm, chiến lược thị trường không rõ ràng. Không chuyên nghiệp trong việc quảng bá sản phẩm, quảng bá hình ảnh của DN. Không quan tâm đến sự an toàn của sản phẩm và quyền lợi của người tiêu dùng.

Để DN không phá sản vì lãi suất tiền vay cao, trước tiên DN cần xác định lại loại hình kinh doanh và cơ cấu vốn của mình. Xác lập chiến lược sản phẩm, nên tập trung vào đối tượng khách hàng nào là mục tiêu. Xác lập chiến lược thị trường, tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu... Từ đó xác định quy mô sản xuất và kinh doanh thích hợp. Trong giai đoạn hiện nay nên tập trung vào ngành hàng có thế mạnh của DN, mạnh dạn cắt bỏ những loại hình kinh doanh không thuộc thế mạnh, giảm bớt hàng tồn kho, kiểm tra tài chính và thu hồi các khoản nợ, hạn chế tối đa việc vay vốn ngân hàng. Quan tâm về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nơi DN có hoạt động kinh doanh để giảm thiểu các rủi ro, mất mát.

Tóm lại, trên thế giới, ở thời điểm này không có nơi nào lãi suất cao như ở Việt Nam. DN phải cố gắng chịu đựng cho qua giai đoạn này. Sau cơn mưa, trời lại sáng, dù ảnh hưởng của cơn bão tài chính, nhưng cơn bão rồi cũng qua, nhu cầu tiêu dùng của xã hội vẫn phải có, người ta ai cũng phải ăn, phải mặc, phải đi lại và quan trọng phải có nhà ở... Trước mắt có dấu hiệu giảm phát, nhiều người lo lắng về sự giảm phát. Tôi cho rằng giá tiêu dùng giảm hiện nay là đúng, vì nhu cầu tiêu dùng giảm thì giá phải giảm. Khi thấy giá giảm, người có tiền lại mua vào, người bán được hàng lại tiếp tục mua nguyên liệu để sản xuất, thị trường lại bắt đầu sôi động, khi ấy giá cả lại từ từ nhích lên.

Tuy nhiên, sự dự đoán của thị trường hiện nay còn rất phức tạp, DN phải luôn luôn có sự dự phòng mức độ rủi ro trong biên độ cho phép và phải tập làm quen và thích ứng với những tổn thương của cơ chế thị trường.

Nguồn: DDDN