
Tin tức
Hai năm thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư: Kết quả, vấn đề và giải pháp (21/11)
06/08/2010 - 31 Lượt xem
1. Những tác động của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
Luật DN 2005 là bước nối tiếp của Luật DN 1999 và có sự phát triển theo hướng tạo môi trường, điều kiện thuận lợi hơn nữa cho DN trong việc đăng ký kinh doanh, quản trị DN và cải thiện môi trường pháp lý liên quan đến các ngành nghề mà DN được phép hoạt động. Luật Đầu tư là đạo luật đầu tiên thống nhất các quy trình, thủ tục, điều kiện để đầu tư, được áp dụng chung cho tất cả các thành phần kinh tế tại Việt Nam. Với ý nghĩa đó, sau khi hai luật này được Quốc hội thông qua, Chính phủ và các bộ ngành cũng đã ban hành một loạt văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các luật này. Thực tế cho thấy, quá trình thực thi hai bộ luật này đã có tác động đáng kể tới việc cải cách hành chính, cắt giảm thời gian thủ tục cho DN, thay đổi quan điểm tiếp cận với DN, kịp thời giải quyết vướng mắc, cung cấp, cập nhật thông tin cho DN...
Qua 2 năm thi hành hai luật, số lượng DN thành lập tăng đáng kể, vốn đăng ký đầu tư tăng, giải quyết được nhiều công ăn việc làm... góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của Việt Nam.
Bảng 1: Số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký
Năm 2006 |
2007 |
9 tháng năm 2008 | ||||
Giá trị |
Tăng so với 2005 |
Giá trị |
Tăng so với 2006 |
Giá trị |
Tăng so với cùng kỳ | |
Số doanh nghiệp |
46.498 |
25% |
58.908 |
26% |
43.945 |
26% |
Số vốn (tỷ đồng) |
155.871 |
2 lần |
298.193 |
2 lần |
335.601 |
27% |
Nguồn: Báo cáo của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
Đặc biệt, Luật Đầu tư có hiệu ứng tích cực ở cả hai khía cạnh. Thứ nhất, đầu tư trong nước tăng thông qua việc thành lập mới các DN và việc mở rộng quy mô, chuyển giao khoa học công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, khả năng cạnh tranh tăng lên... của các DN đang hoạt động. Thứ hai, đối với đầu tư nước ngoài, trong tình trạng khó khăn chung trên toàn thế giới, đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có sự tăng trưởng đột biến về số lượng.
Giá trị sản xuất của tư nhân trong nước và doanh nghiệp FDI tăng cao và chiếm phần chủ yếu trong sản xuất công nghiệp. Theo thống kê chỉ có doanh nghiệp tư nhân và FDI tăng được tỷ trọng trong GDP. Bên cạnh đó, tạo thêm việc làm mới hàng năm được tạo ra khoảng 0,5 triệu lao động đang dư thừa.
Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế. Cụ thể:
- Quy mô doanh vẫn còn nhỏ và rất nhỏ; tăng trưởng chậm, 80% doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ VNĐ, 90% số doanh nghiệp có số lao động dưới 49 người.
- Tăng trưởng về giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu, doanh thu, lợi nhuận và vốn đầu tư tăng thêm hàng năm chưa cao. Quy mô của doanh nghiệp so với các nước trên thế giới còn quá nhỏ bé.
- Phân bố doanh nghiệp và vốn đầu ngày càng không đồng đều giữa các vùng (theo đăng ký). Theo đó tập trung nhiều ở Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Hồng. Trong khi đó các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên thì số doanh nghiệp và số vốn đăng ký đầu tư đều rất thấp.
Bảng 2: Phân bố vốn và doanh nghiệp theo vùng (%)
2006 |
2007 |
4tháng/2008 | |||
DN |
Vốn |
DN |
Vốn |
Vốn | |
Đồng bằng sông Hồng |
31,2 |
37,8 |
31,5 |
34,5 |
31,7 |
Đông Bắc |
4,5 |
5,8 |
4,4 |
5,0 |
4,4 |
Tây Bắc |
1,0 |
0,6 |
0,9 |
0,8 |
0,8 |
Bắc Trung Bộ |
5,6 |
4,9 |
5,1 |
3,3 |
3,5 |
Duyên hải Trung Bộ |
7,6 |
4,9 |
7,2 |
5,3 |
6,8 |
Tây Nguyên |
2,7 |
2,7 |
3,2 |
2,2 |
6,9 |
Đông Nam Bộ |
39,5 |
36,3 |
39,4 |
40,9 |
37,7 |
Đồng bằng sông Cửu Long |
7,6 |
6,4 |
8,1 |
7,2 |
5,7 |
Nguồn: Báo cáo của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
- Khả năng hấp thụ, tích tụ vốn để phát triển kém. DNNN vẫn trong tình trạng đóng, không thu hút được vốn từ bên ngoài (trừ cổ phần hóa lần đầu bằng cách huy động thêm vốn). Trong khi đó DN tư nhân vẫn còn mang năng tư tưởng “gia đình trị” chưa chào đón sự thâm nhập của người đầu tư bên ngoài, các DN FDI phụ thuộc vào sự chỉ huy tập trung từ công ty mẹ không có cơ hộ để người ngoài đầu tư. Bên cạnh đó, hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu chiến lược và kế hoạch phát triển dài hạn. Ngoài ra, việc quản trị kém cùng với các chính sách không rõ ràng cho các nhà đầu tư nên đã hạn chế rất nhiều việc thu hút và hấp dẫn người đầu tư ngoài. Từ đó dẫn đến khả năng tập trung, tích tụ vốn kém, không thể đầu tư đổi mới công nghệ, không mở rộng được quy mô, không giảm chi phí, không nâng cao năng suất… Do đó, không thể cải thiện được năng lực cạnh tranh.
Như vậy, có thể thấy rằng kết quả thực hiện Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp có mức độ thành công khác nhau ở các địa phương khi chỉ đơn thuần thực hiện luật hay kết hợp quá trình triển khai thực hiện luật với cải thiệt môi trường kinh doanh mà trọng tâm là đơn giản hoá các thủ tục hành chính; khả năng và cơ chế tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp; thái độ và tinh thần của cán bộ đăng ký kinh doanh, giải quyết các thủ tục đầu tư….
2. Các vướng mắc trong quá trình thực thi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
Về thi hành Luật Đầu tư
Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn chất lượng chưa cao. Một số điều khoản còn chưa rõ ràng, cụ thể cần phải được hướng dẫn trong khi đó chất lượng của các văn bản hướng dẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đây là nguyên nhân phát sinh hàng loạt các vấn đề, gây không ít khó khăn cho các bên có liên quan trong việc thực hiện và áp dụng luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thủ tục hành chính về đầu tư xây dựng vẫn còn phức tạp, phiền hà, và không thống nhất giữa các địa phương…. Bên cạnh đó, tình trạng trùng lặp về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nội dung thẩm định, … diễn ra khá phổ biến. Theo Tổ công tác thì hiện tại có tới hơn 60 loại giấy tờ khác nhau cần phải nộp. Các loại giấy tờ phải nộp nhiều lần ở các cơ quan khác nhau hoặc phải nộp cùng một loại hồ sơ cho các thủ tục khác nhau tại cùng một cơ quan… Hệ quả, làm hạn chế khả năng hấp thụ vốn của cả doanh nghiệp và nền kinh tế, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, làm tăng chi phí đầu tư, làm tăng tính bất ổn và rủi ro đối với doanh nghiệp, làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra còn tạo cơ hội cho đầu cơ, lạm dụng thân quên, hoặc tình trạng tham nhũng diễn ra…
Thực hiện xúc tiến đầu tư thiếu phối hợp và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chính sách huy động vốn đầu tư và quản lý đầu tư đang được ban hành và thực hiện một cách phân tán theo từng ngành, từng địa phương. Thiếu sự phối hợp, hướng dẫn và giám sát trong thu hút đầu tư, sử dụng đất và tài nguyên…Xuất hiện hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh và thu hút đầu tư theo phong trào tại các địa phương. Chất lượng đầu tư đang có xu hướng giảm xuống.
Hồ sơ và thủ tục hành chính với đăng ký, thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư còn không ít thiếu sót, chưa rõ rang về bản chất pháp lý. Một số loại hồ sơ không có mẫu thống nhất. Nhiều hồ sơ còn sơ sài không tương thích với các luật khác. Bên cạnh đó, giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đang gây nhiều rắc rối cho cả nhà đầu tư và cơ quan nhà nước.
Về thi hành Luật Doanh nghiệp
Hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp còn không ít khiếm khuyết, 20 nội dung hướng dẫn trái hoặc chưa phù hợp với Luật: 10 ở Nghị định 88/2006; 2 nội dung của Nghị định 139/2007 chưa được hướng dẫn; Tất cả các biểu mẫu của TT 03/2006 đều có khiếm khuyết...
Chưa đơn giản hóa, cụ thể hóa và nâng cao chất lượng các quy định về điều kiện kinh doanh liên quan đến thực hiện Luật Doanh nghiệp. Theo Tổ công tác đến hết 07/2008 có 43 luật và pháp lệnh, 108 nghị định, và hơn 350 thông tư và quyết định của các Bộ có nội dung quy định về kinh doanh có điều kiện. Theo đó có khoảng 400 hoạt động kinh doanh có điều kiện. Hầu hết các các văn bản pháp luật còn tản mạn và phân tán, không ổn định, thiếu rõ ràng, không nhất quán, tính minh bạch và không tiên liệu trước được, chưa bãi bỏ được các quy định không hợp pháp, không còn cần thiết, chưa bổ sung, sửa đổi các quy định không còn phù hợp. Điều này dẫn đến sự tùy ý trong thực hiện, thiếu chắc chắn, tin cậy và an toàn, rủi ro về thể chế lớn, chi phí trung gian giao dịch cao, ngăn cản đầu tư dài hạn và bền vững.
Cách thức thực hiện quyền sở hữu nhà nước vẫn chưa thay đổi phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp. Chế độ hành chính chủ quản đã lỗi thời, không còn phù hợp, chưa bị thay thế. Các cơ quan nhà nước vẫn thực hiện quyền chủ sở hữu theo cơ chế hành chính, phân tán. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước còn nhiều hạn chế về năng lực, hiệu quả vừa cản trở quyền tự chủ, sáng tạo và năng động.
Một số cam kết quốc tế chưa được hiểu thống nhất và chưa được cam hướng dẫn để thực hiện. Chưa có định nghĩa và cách hiểu rõ ràng về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chưa có quy định nhà đầu tư nước ngoài bị hạn chế sở hữu trong các ngành, nghề cụ thể nào? Tỷ lệ sở hữu tối đa được phép và lộ trình tăng tỷ lệ sở hữu nếu có?...
3. Một số giải pháp đẩy mạnh thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
3.1 Các giải pháp trước mắt
Bổ sung, sửa đổi Nghị định 88/2006/NĐ – CP về đăng ký kinh doanh và Thông tư số 03/2006/BKH-TT về ban hành các biểu mẫu đăng ký kinh doanh; Nghị định số 139/2007/NĐ – CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp; Nghị định 108/2006, QĐ 1088/2006/BKH theo hướng đầy đủ hơn, cụ thể hơn và phù hợp với tinh thần và nội dung các quy định có liên quan của Luật Doanh nghiệp; khắc phục các điểm trái hoặc không phù hợp. Nghiên cứu bổ sung sửa đổi theo hướng đơn giản hóa thủ tục, phân cấp hợp lý hơn đối với quản lý nhà nước đối với đầu tư ra nước ngoài. Đánh giá lại chế độ phân cấp quản lý đầu tư; thiết lập cân bằng hơn giữa TW và địa phương trong khuyến khích và quản lý nhà nước đối với đầu tư, thúc đẩy đầu tư và phát triển doanh nghiệp tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên.
Tăng cường giám sát của cơ quan đăng ký kinh doanh đối với việc tuân thủ các quy định về góp vốn, các nghĩa vụ của thành viên, cổ đông, chủ sở hữu doanh nghiệp và những người quản lý doanh nghiệp. Nghiên cứu soạn thảo nghị định hướng dẫn về tổ chức, quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chuyển đổi và đăng ký lại theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Đối với các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư. Nghiên cứu soạn thảo quy trình tổng hợp về thủ tục hành chính trong đăng ký, thẩm tra đầu tư, đăng ký, thẩm tra đánh giá tác động môi trường, cấp đất, giao đất hoặc thuế đất, cấp giấy phép xây dựng… áp dụng trên phạm vi cả nước, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lặp và thực hiện khác nhau ở các địa phương như hiện nay.
Kiện toàn cơ cấu tổ chức và nâng cao một bước hiệu lực thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước bằng các biện pháp cụ thể. Tiếp tục đầy mạnh cổ phần hóa, sửa đổi lại điều lệ của các tập đoàn kinh tế; Thực hiện quyền sở hữu nhà nước tập trung và thống nhất đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Tập hợp, đánh giá và nắm bắt một cách tốt nhất thực trạng tài chính, thực trạng tài sản của các doanh nghiệp; đánh giá chất lượng và hiều quản từng dự án và khoản mục đầu tư.
3.2 Biện pháp cơ bản, lâu dài
Nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Đầu tư theo hướng “một luật bổ sung, sửa đổi nhiều luật có liên quan”, bao gồm Luật đầu tư và các nội dung liên quan đến đầu tư trong xây dựng, đất đai, môi trường và một số luật khác. Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. Nghiên cứu, xây dựng và xác định cụ thể các tiêu chí, thước đo về chất lượng của các dự án luật, pháp lệnh, nghị định và các văn bản pháp luật khác, làm căn cứ thẩm định, thẩm tra và thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. thu hẹp dần vai trò và ý nghĩa của các thông tư do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành, nhất là phân định rõ ràng ranh giới và sự khác biệt về nội dung giữa nghị định hướng dẫn thi hành luật và thông tư hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh và nghị định.
Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực nghiên cứu, phân tích chính sách và đánh giá chất lượng chính sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nghiên cứu, thành lập cơ quan ngang bộ, độc lập với các cơ quan hành chính nhà nước, tập trung và chuyên trách thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp.
Nâng cao vị thế và vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp trong nghiên cứu, soạn thảo luật pháp chính sách và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải chủ động xây dựng nâng cao năng lực về chuyên môn và tính độc lập; nâng cao vị thế của mình như một bên có liên quan trong quá trình nghiên cứu và soạn thảo luật pháp và chính sách. Tích cực, chủ động theo dõi, giám sát và phản biện một cách thiết thực đói với các dự án luật, pháp lệnh nghị định và những chính sách khác có liên quan đến hiệp hội và các thành viên của hiệp hội. Chủ động tập hợp các nhu cầu, vướng mắc và khó khăn của các thành viên, nhất là khó khăn, vướng mắc từ thể chế và cách thức thực hiện thể chế, luật pháp; thay mặt các thành viên, chủ động nghiên cứu phát hiện những bất hợp lý của chính sách luật pháp, gây thiệt hại đến lợi ích của các thành viên và kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyển bãi bỏ hoặc bổ sung sửa đổi.
***
Phát biểu tại Hội thảo TS. Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tổ phó Tổ Công tác thi hành Luật DN và Luật Đầu tư cho rằng điểm yếu trong thực thi luật nằm ngay từ nội bộ các cơ quan thi hành pháp luật. Đồng thời nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc tiếp tục rà soát các văn bản pháp luật, nghiên cứu, bổ sung, chỉnh sửa các văn bản pháp luật, nghị định, thông tư có liên quan theo hướng đơn giản hóa thủ tục, phân cấp hợp lý hơn giữa quản lý nhà nước và quản lý ở địa phương. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính, tạo sự thuận tiện trong đầu tư, thống nhất cách thức thực hiện từ Trung ương đến địa phương. Có như vậy Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới phát huy được tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh trong nước.
Nguồn: VNEP
