
Tin mới
Tháng 11/2008
06/08/2010 - 148 Lượt xem
TỔNG HỢP TIN KINH TẾ THÁNG 11 – 2008
1. Lạm phát giảm và các rủi ro cho hoạt động sản xuất – kinh doanh
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2008 tiếp tục giảm 0,76% so với tháng 10. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng tính từ đầu năm 2008 dừng lại ở mức 20,71%. Nếu so với cùng kỳ mức tăng là 24,22% và tính bình quân 11 tháng 2008 so với 11 tháng 2007 chỉ số giá vẫn tăng ở mức cao là 23,21%.
Theo các chuyên gia kinh tế, xu hướng giảm giá còn tiếp tục trong thời gian tới. Việc giảm CPI là hệ quả của giá thế giới giảm, mùa màng trong nước bội thu. Không những vậy, tác dụng hạ nhiệt này còn mạnh lên do việc giá hàng xuất khẩu giảm đương nhiên sẽ trực tiếp kéo giá trong nước xuống theo.
Mặt khác, nhờ những nỗ lực vượt bậc trong nhiều năm qua, càng ngày khối lượng hàng hoá xuất khẩu của chúng ta càng tập trung nhiều hơn vào các trung tâm kinh tế thế giới, nhưng theo dự báo của IMF, đây lại chính là những thị trường bị cuộc khủng hoảng tài chính tàn phá mạnh nhất với kỷ lục tăng trưởng ở mức "âm", tồi tệ nhất trong vòng 3 thập kỷ trở lại đây. Điều này đang gây ra áp lực mạnh mẽ làm giảm giá trong nước. Rõ ràng, trong điều kiện phụ thuộc ngày càng nặng nề vào cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu để phát triển như nước ta, đương nhiên việc giá đầu vào nhập khẩu giảm mạnh là một yếu tố thuận lợi, còn việc đầu ra tăng tốc chậm, thậm chí có thể bị "co lại" sẽ làm mạnh thêm xu thế hạ nhiệt giá cả trong nước. Bên cạnh đó, hậu quả suy kiệt sức mua của một bộ phận đông đảo dân cư sau thời gian lạm phát phi mã kéo quá dài chắc chắn cũng sẽ không thể khắc phục trong một sớm một chiều, cho nên cũng sẽ tác động tiêu cực đến sức mua của thị trường trong nước.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là, không chỉ giá giảm mà sức mua cũng giảm mạnh, diễn biến trên đang đi ngược lại với quy luật những tháng cuối năm trước đây. Theo các chuyên gia nhận định: "Trong bối cảnh tăng trưởng có xu hướng đi xuống, sản xuất ảm đạm như hiện nay, việc kích cầu là cần thiết". Hiện nay, trên thế giới đã có tiêu chí phải tăng trưởng âm hai quý liên tục mới là suy thoái. Tốc độ tăng giá cả năm âm mới lo giảm phát. Tuy nhiên, với quốc gia mỗi năm dân số tăng hơn 1 triệu người như Việt Nam thì tốc độ tăng trưởng tối thiểu phải đạt 4% mới đủ ăn, đảm bảo đời sống không tụt dốc. Vì vậy, trong bối cảnh tăng trưởng có xu hướng đi xuống, sản xuất ảm đạm như hiện nay, việc kích cầu là cần thiết.
Theo ý kiến của các chuyên gia, điều đáng ngại hiện nay là tăng trưởng và xuất khẩu giảm mạnh. Một số đáng kể doanh nghiệp nhỏ và vừa đã lịm dần. Nhiều làng nghề gần như tê liệt…. Kích cầu phải nhằm khắc phục tình trạng giảm sút sản xuất chứ không phải để tăng CPI. Đối tượng cần kích cầu trước tiên là nông dân, tuy nhiên đây là vấn đề không dễ, vì nông dân VN vừa bị thiệt hại rất lớn. Để duy trì, phát triển sản xuất, Nhà nước cần hỗ trợ họ bằng giống, thủy lợi, giảm đến mức thấp nhất các loại phí còn lại, trợ cấp vốn.
Bên cạnh đó, Nhà nước có thể giãn, khoanh, xóa nợ cho doanh nghiệp và với người nông dân vùng thiên tai. Với doanh nghiệp vừa và nhỏ nên có kích cầu vào đầu tư, xây dựng cơ bản. Nên khôi phục tín dụng cho các dự án bất động sản sắp hoàn thành nhưng không nên tăng tín dụng tiêu dùng. Tuy nhiên, đầu tư của Nhà nước không nên chỉ tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế đầu tư nên thay đổi, phải có sự tham gia của các thành phần khác, có cạnh tranh lành mạnh, không thể kích cầu tràn lan mà nên tập trung vào những công trình hiệu quả, có thể sinh ra tiền sau khi đi vào sử dụng. Kích cầu lần này phải đi liền với cải cách, trước tiên công khai minh bạch các thông tin đầu tư. Chừng nào đầu tư mà còn phải “xin cho” thì khó có hiệu quả vì chi phí cao, chất lượng thấp. Bên cạnh đó, kích thích quan trọng nhất với doanh nghiệp nhỏ và vừa là Nhà nước giảm được các chi phí không tên. Hiệu quả của biện pháp này có khi còn cao hơn cả cho vốn. Như một công bố nếu giảm 40% thủ tục hành chính có thể giảm chi phí 13-30 ngàn tỉ đồng.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh vai trò của Nhà nước trong xúc tiến, tìm kiếm thị trường, giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bản thân các doanh nghiệp cũng cần cơ cấu lại mặt hàng, liên kết lại để biết các nhà nhập khẩu nước ngoài đang điều chỉnh thế nào. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chấp nhận giảm lãi, khuyến mãi chia sẻ với người tiêu dùng để cả hai cùng được lợi.
Theo các chuyên gia kinh tế, trong thời gian tới, Chính phủ một mặt chống lạm phát nhưng đồng thời đề phòng nguy cơ thiểu phát. Hiện đang có các dấu hiệu thiểu phát từ hai góc độ: Sự đình trệ của hoạt động ngân hàng và sản xuất kinh doanh. Mặc dù chưa thể khẳng định nền kinh tế có rơi vào thiểu phát hay không vì tăng trưởng vẫn cao, việc làm, tiêu dùng và thu nhập vẫn ổn định. Nhưng trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra, nếu CPI trong các tháng tiếp theo tiếp tục âm như tháng 10, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa suy sụp, tổng cầu suy giảm, hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được, hoạt động ngân hàng bị đình đốn theo, thất nghiệp gia tăng thì nền kinh tế có thể rơi vào suy giảm. Vì thế, trong hoạch định chính sách vĩ mô, khi lạm phát đang giảm nhưng xuất hiện nguy cơ thiều phát, Chính phủ cần theo dõi sát, phân tích, dự báo cụ thể để có điều chỉnh chính sách kinh tế kịp thời, chủ động có phương án đối phó với tình huống thiểu phát xảy ra.
Về tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong thời gian tới, theo nhận định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2009, Việt Nam sẽ tiếp tục gánh chịu những khó khăn từ khủng hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng ra toàn cầu. Điều này khiến cho kinh tế toàn cầu tiếp tục sụt giảm, ảnh hưởng đến hầu hết các nền kinh tế trong đó có Việt Nam, nhất là các lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư... Trong nước, nền kinh tế sẽ tiếp tục gánh chịu ảnh hưởng lạm phát cao từ năm 2008, các cân đối vĩ mô chưa ổn định, sức cạnh tranh nền kinh tế thấp, các DN khó khăn do lạm phát, hoạt động tài chính ngân hàng còn nhiều rủi ro … sẽ ảnh hưởng rất bất lợi đến việc duy trì tăng trường kinh tế cao cho năm 2009 và năm tiếp theo trong kế hoạch 2006 – 2010. Vì thế, nhiều chuyên gia cho rằng, năm 2009 và cả phần nào 2010 kinh tế Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn phục hồi. Xu hướng hy vọng nhất là kinh tế sẽ ổn định trong 2009 và 2010 sẽ lấy lại được đà phát triển Vì thế, nhiều chuyên gia dự đoán, tăng trưởng kinh tế 2009 có thể chỉ dừng lại ở mức 6,5% và cố gắng đạt 7,4 - 8% vào 2010. Trong định hướng phát triển cho 2 năm 2009 - 2010, lạm phát vẫn là yếu tố đầu tiên được tính đến. Vì thế, các chuyên gia đã đề xuất, Việt Nam vẫn tiếp tục ưu tiên kiếm chế lạm phát theo hướng giảm dần, đến 2010 đưa lạm phát xuống 1 con số, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trường kinh tế ở mức hợp lý.
2. Những hạn chế trong điều hành chính sách lãi suất
Ngày 20/11/2008 Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành các quyết định về điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới. Cụ thể:
- Lãi suất cơ bản (LSCB) bằng đồng Việt Nam giảm từ 12%/năm xuống 11%/năm; theo đó, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 18%/năm xuống 16,5%/năm.
- Lãi suất tái cấp vốn giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 11%/năm xuống 10%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụngđược giảm 2% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam.
Như vậy, đây là lần thứ hai trong tháng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có loạt điều chỉnh quan trọng liên quan đến chính sách tiền tệ. Với lần điều chỉnh này, nhà điều hành tiếp tục phát tín hiệu nới dần chính sách tiền tệ, tạo điều kiện thêm vốn cho các ngân hàng tiếp vốn cho nền kinh tế, cũng như gián tiếp kéo lãi suất huy động và cho vay trên thị trường xuống. Tuy nhiên, một số chuyên gia ngân hàng nhận định, tại thời điểm hiện nay chính sách lãi suất không còn nhiều tác động đến nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước đã liên tục giảm LSCB và mức LS cho vay của Ngân hàng Thương mại (NHTM) cũng liên tục giảm, nhưng dư nợ vẫn tăng rất thấp. Hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán thấp hơn giá thành (chứ không phải vấn đề lãi suất) đã khiến một số doanh nghiệp (DN) không muốn vay vốn. Bên cạnh đó, kinh tế toàn cầu suy thoái, doanh nghiệp dù có ích lợi từ lãi suất giảm, lạm phát giảm và giá trị tiền đồng lợi hơn (rẻ đi) thì chưa chắc sản xuất ra đã có nguồn cầu. Có nhiều DN phải sản xuất cầm chừng hoặc ngừng sản xuất. Bản thân ngân hàng cho vay tín dụng bây giờ cũng rất khó vì rất ít DN dám vay vì họ không giải quyết được câu hỏi vay để làm gì? Bán cho ai? Người mua có tiền để trả không? Theo đánh giá, các động thái của NHNN, tuy có thể tiếp tục làm mức LS cho vay của các NHTM xuống tiếp nhưng theo ý kiến nhiều NHTM và các chuyên gia tài chính có thể sẽ đẩy một số NHTM đến tình trạng thua lỗ. Các NHTM đang muốn NHNN có các giải pháp khác linh hoạt và hợp lý hơn cho cả NH và khách hàng. Hiện tại, NHNN áp dụng mức LS trần chung cho tất cả các loại hình tín dụng là chưa thật sự hợp lý. Một số NH cho rằng LSCB chỉ là LS định hướng, NHNN nên ban hành nhiều mức trần LS cho các sản phẩm tín dụng khác nhau.
Bên cạnh đó, chính sách điều hành lãi suất thực dương của NHNN vẫn còn nhiều yếu kém. Xét trên bình diện tổng thể, mục tiêu của việc thực hiện chính sách lãi suất thực dương không có gì khác hơn là bảo đảm sự hài hòa về lợi ích kinh tế của những người có vốn và những người sử dụng vốn. Và để thực hiện được điều đó, người sử dụng vốn phải trích một phần lãi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình để trả cho người có vốn. Thế nhưng, dường như hiện đang thiếu những tiền đề quan trọng bậc nhất để thực hiện chính sách quan trọng này, cho nên đang góp phần đẩy các DN - những chủ thể sử dụng vốn chủ yếu, vào tình trạng khó càng thêm khó hiện nay, còn hiệu quả của nó chắc chắn cũng hạn chế.
Trước hết, đối với những người có vốn, trong điều kiện lạm phát, lãi suất thực dương có nghĩa là khoản lãi mà người sử dụng vốn trả cho họ sau thời gian giao quyền sử dụng vốn phải cao hơn tốc độ lạm phát. Và để thực hiện được mục tiêu này, tiền đề cơ bản không thể thiếu đầu tiên là phải dự báo được tốc độ tăng lạm phát ở ngay thời điểm giao và nhận quyền sử dụng vốn để làm chuẩn. Trong năm 2007, lạm phát đạt 12,63%, nhưng LSCB vẫn chỉ duy trì ở mức 8,25%/năm giống như năm 2006. Rõ ràng, xét trên lý thuyết, với biên độ giao dịch (BĐGD) không vượt 150% LSCB, lãi suất cho vay (LSCV) tối đa có thể lên tới 12,375%/năm, nếu trừ lùi tối thiểu 3,0%/năm chi phí và lợi nhuận của các tổ chức tín dụng, thì lãi suất huy động (LSHĐ) tối đa của các tổ chức này cũng chỉ có thể là 9,375%/năm, cho nên thấp rất xa so với lạm phát thực tế. Đây là điều hết sức phi lý, bởi lạm phát năm 2006 chỉ cao hơn một nửa (6,6%), trong khi các mức lãi suất này thì vẫn giữ nguyên. Bước sang năm 2008, LSCB ban đầu vẫn được neo ở mức 8,25%/năm, từ tháng 2 bắt đầu được tăng "nhỏ giọt" lên 8,75%/năm và duy trì đến hết trung tuần tháng 5 mới có bước tăng vọt lên 12%/năm, trong khi lạm phát đã tăng đại nhảy vọt lên 15,96%. Như vậy, người có vốn gửi vào ngân hàng bị lỗ rất nặng. Rõ ràng, với mức chênh lệch quá lớn như vậy, đương nhiên người có vốn không thể ưu tiên cho kênh đầu tư này, mà tăng cường chi tiêu, cho nên "vòng xoáy" lạm phát càng mạnh thêm, còn chính các ngân hàng và cả các "thượng đế" ở phía đầu ra của các định chế tín dụng này đều lâm vào tình trạng "khát" vốn.
Điều đáng nói nữa là, sau khi mục tiêu kiềm chế lạm phát đã có dấu hiệu tích cực, tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần, lạm phát trong tháng 6 đã hạ nhiệt rất mạnh so với các tháng trước đó, nhưng LSCB lại được đẩy thêm 2% nữa để đạt kỷ lục 14%/năm. Tiếp theo, trong khi kỷ lục LSCB này được duy trì trong suốt trong quý III vừa qua, thì lạm phát lại chỉ là 2,89%, còn trong tháng 10 và tháng 11, khi lạm phát "âm" xuất hiện, thì LSCB cũng chỉ được giảm dần xuống 11%/năm. Các mối quan hệ tay ba nói trên lại diễn ra theo một chiều hướng hoàn toàn ngược lại. Lãi suất cho vay cao, lãi suất huy động vốn cao, cho nên những người có vốn sẽ tăng cường đẩy vốn vào ngân hàng để hưởng lãi lớn chưa từng có so với hai giai đoạn trước.
Do vậy, xét trên quy mô tổng thể của nền kinh tế, trong điều kiện giá cả đã hạ nhiệt mạnh, thay vì yêu cầu đặt ra là phải tăng cường chi tiêu để đẩy giá cả thị trường lên, thì "bệnh lười chi tiêu" của người tiêu dùng lại càng nặng thêm, và do vậy, xu thế hạ nhiệt giá cả thị trường lại càng mạnh hơn.
Ngược lại, đối với các DN sản xuất, kinh doanh, lãi suất vay vốn ngân hàng lại càng cao so với giá bán các sản phẩm ngày càng giảm mạnh của mình, cho nên khó khăn càng chồng chất. Tất cả những điều nói trên cũng có nghĩa là, điểm mấu chốt trong câu chuyện thực hành chính sách lãi suất thực dương chính là, trong giai đoạn chín tháng lạm phát nóng bỏng nhất đã qua, nó đã "âm" quá sâu, cho nên không có tác dụng "hút bớt" tiền tệ khỏi lưu thông, đồng nghĩa với việc không có tác dụng chống lạm phát, hoặc chí ít là tác dụng chống lạm phát không thể như mong muốn. Và ngược lại, trong 4 tháng lạm phát đã hạ nhiệt rất mạnh gần đây, với việc LSCB đã được đẩy lên rất cao và mới chỉ giảm "nhỏ giọt" từ đầu tháng 10, thay vì phải đẩy tiền tệ ra lưu thông, các ngân hàng lại đóng vai trò của những "cỗ máy hút tiền về" khiến "căn bệnh lười chi tiêu" của người tiêu dùng sẽ càng trầm trọng hơn, còn các DN sẽ phải tiếp tục đối mặt với khó khăn lãi suất vay vốn cao ngất ngưởng trong khi giá sản phẩm tiêu thụ trên thị trường chắc chắn sẽ còn giảm tiếp, cho nên giảm phát sẽ là hệ quả đang đón đợi ở phía trước.
Ngoài ra, việc chưa bao giờ vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại tốt như lúc này như xác nhận của lãnh đạo Hiệp hội Ngân hàng, vì đang có nhiều chục ngàn tỷ đồng trong két vào cuối tháng 10 như một số thông tin gần đây cho thấy chắc chắn cũng bắt nguồn từ "nghịch cảnh" giữa hai đầu vào và đầu ra nói trên, còn bên cạnh đó là hàng chục nghìn DN đang rất khó khăn, thậm chí "chới với bên bờ vực phá sản" vì đang đứng giữa ba "làn đạn": giá vốn quá cao, giá nguyên liệu đầu vào chưa giảm mạnh, nhưng giá sản phẩm đã tụt dốc. Nói tóm lại, thực tế thi hành chính sách lãi suất thực dương của nước ta cũng còn nhiều bất cập, cho nên không chỉ ít hiệu quả, thậm chí còn làm phát sinh hậu quả tai hại, mà cái khó đẩy cho doanh nghiệp nước ta hiện đang là quá lớn.
3. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 11/2008 giảm so với tháng 10 và đạt 4,8 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng đầu năm, tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 58,5 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2008 giảm so với tháng 10 và đạt 5,3 tỷ USD, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng qua, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đã đạt 75,4 tỷ USD, tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước. Nhập siêu tháng 11/2008 ước tính đạt 500 triệu USD, tính chung 11 tháng đầu năm, nhập siêu đã đạt 16,9 tỷ USD, bằng 28,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các chuyên gia cho rằng, khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động tới mạnh mẽ tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, khiến thâm hụt thương mại gia tăng. Điều này dẫn tới hệ lụy là cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm trong khi cung đối với các mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng do các nhà sản xuất bị giảm thị trường ở các nước phát triển sẽ mở rộng thị trường ở các nước khác. Khả năng xuất khẩu bị giảm mạnh là rất cao. Trong khi nhập khẩu nếu có giảm sẽ giảm ít hơn so với xuất khẩu. Điều này làm cho thâm hụt thương mại của Việt Nam gia tăng.
Đặc điểm nổi bật của xuất khẩu Việt Nam là tập trung cho một số sản phẩm chiếm thị phần khá lớn như: gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy sản, may mặc, giày dép… Thị trường xuất khẩu lại tập trung ở những nước bị ảnh hưởng lớn từ khủng hoảng hay suy giảm như Mỹ, Châu Âu, hiện chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo các chuyên gia, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này giảm mạnh vì: Thứ nhất, hàng xuất khẩu của Việt Nam một phần lớn vẫn là các loại hàng thô, trong khi giá các loại nguyên liệu thô trên thị trường thế giới đang giảm mạnh. Thứ hai, là sự eo hẹp của thị trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa, theo đó nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt Nam giảm đi. Thứ ba, suy giảm kinh tế thế giới và lạm phát trong nước sẽ dẫn tới xu hướng thu hẹp sản xuất, thu nhập của người lao động giảm sút và số người mất việc làm gia tăng, làm cho cầu tiêu dùng và thương mại nội địa giảm. Sụt giảm cầu trong nước diễn ra đồng thời với khó khăn trên thị trường thế giới của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp xuất khẩu quay sang chú trọng hơn tới thị trường nội địa.
Mặc dù theo thống kê kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2008 đều tăng cao so với cùng kỳ năm 2007. Thế nhưng, tình hình đang diễn biến hết sức phức tạp. Hiện nay đã có nhiều dấu hiệu cho thấy kim ngạch xuất khẩu đang có dấu hiệu chững lại trong khi đó kim ngạch nhập khẩu đang tăng lên. Các doanh nghiệp phải đối mặt với giá giảm, thị trường bị thu hẹp. Theo dự báo của các chuyên gia, sẽ có sự cạnh tranh quyết liệt về chất lượng hàng hóa và giá cả để giành thị trường trong tháng còn lại và trong năm 2009. Trong đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu với các đối thủ rất nặng ký như Trung Quốc và các nước ASEAN. Đây là những thị trường có những mặt hàng cạnh tranh tương tự với Việt Nam - với cấp độ tinh tế của từng mặt hàng rất đa dạng phù hợp với nhu cầu của các cấp độ khách hàng.
Theo đánh giá, khó khăn lớn nhất hiện nay đe doạ khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp được các chuyên gia chỉ ra là do các đối tác nước ngoài không thể mở LC (Tín dụng thư). Đơn giản vì các nước đang siết chặt tín dụng nên các ngân hàng sẽ ngưng cho vay khiến cho nhiều nhà nhập khẩu không mở được LC, theo đó phía Việt Nam sẽ không giao được hàng. Hiện đã bắt đầu có những lô hàng bị tồn đọng ở cảng do các đối tác không mở được LC. Theo các chuyên gia, nếu tình hình khủng hoảng tài chính không được cải thiện, các ngân hàng Mỹ và châu Âu không mở LC cho các nhà nhập khẩu hàng từ các nước, không loại trừ Việt Nam, thì đây có thể là yếu tố tác động xấu đến xuất khẩu.
Nền kinh tế Mỹ và kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoảng rõ ràng sẽ chứa đựng những yếu tố không thuận lợi cho xuất khẩu, tuy nhiên vẫn tồn tại các dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp xuất khẩu còn có lối đi. Mối đe doạ trực tiếp chính là sự xuống dốc của những nền kinh tế phát triển và từ đó nhu cầu tiêu thụ hàng hoá cũng suy giảm theo. Về mặt lý thuyết, kinh tế suy thoái có thể làm gia tăng nhu cầu với nhóm hàng giá rẻ như sản phẩm thay thế. Do đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam không những vẫn giữ được thị trường mà có thể đạt được mức tăng trưởng khá cao.
Để đẩy mạnh xuất khẩu trong hoàn cảnh hiện nay, cần sự phối hợp chặt chẽ giứa Nhà nước, các tổ chức tín dụng, các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp. Trong thời gian tới cần làm tốt các công việc sau:
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước trong điều kiện cho phép có thể tiếp tục cắt giảm lãi suất tiền đồng Việt Nam. Đây là biện pháp hữu hiệu để kích cầu và thúc đẩy sản xuất. Bên cạnh đó, ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu.
Thứ hai, doanh nghiệp cần đa dạng hoá các thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào thị trường truyền thống và mở thêm các thị trường mới. Hướng mục tiêu xuất khẩu sang các thị trường lớn trong khu vực và ít bị tác động bởi khủng hoảng như Trung Quốc, Ấn Độ… Trên thực tế, các doanh nghiệp cũng bắt đầu chủ động ứng phó với tình hình, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và chuyển hướng sang những khu vực thị trường khác ít bị ảnh hưởng của khủng hoảng và các thị trường châu Á khác. Bằng chứng là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường châu Phi, châu Đại dương và châu Á đã bắt đầu tăng nhanh. 10 tháng, xuất khẩu vào thị trường châu Á ước đạt 26,5 tỷ USD, tăng 47% so với cùng kỳ năm ngoái, châu Đại Dương ước đạt hơn 4 tỷ USD, tăng khoảng 62% so cùng kỳ 2007; xuất khẩu sang châu Phi đạt 1,05 tỷ USD, tăng 75% so với cùng kỳ năm 2007, đạt cao nhất từ trước đến nay. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tiếp tục phấn đấu hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năngt cạnh tranh trên thị trưởng quốc tế và thị trường nội địa, chú trọng phát triển các mặt hàng mới.
Thứ ba, các cơ quan chức năng, hiệp hội ngành hàng nên phát huy vai trò liên kết, chủ động phối hợp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh xuất khẩu để tăng trưởng xuất khẩu và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.
Thứ tư, điều chỉnh mức tỷ giá hợp lý để kích thích xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Việc nới biên độ tỷ giá, được đánh giá là động thái hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu khi mà lãi suất đồng USD liên tục được cắt giảm, tỷ giá USD tăng so với các đồng tiền khác. Các chuyên gia tài chính ngân hàng nhận định, việc nới rộng biên độ tỉ giá hối đoái vào thời điểm này là cần thiết để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu. Trong xuất khẩu, khi tỷ giá không tăng, doanh nghiệp xuất khẩu có nguy cơ thua lỗ, việc nới rộng biên độ tỷ giá là sự điều chỉnh tích cực, nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đảm bảo kiềm chế lạm phát đi đôi với đề phòng, ngăn chặn nguy cơ giảm phát.
Thứ năm, doanh nghiệp không nên lãng quên một thị trường cũng vô cùng tiềm năng, là thị trường nội địa với 85 triệu dân. Việc khai thác và mở rộng thị phần tại thị trường nội địa cũng là một giải pháp hữu hiệu giúp doanh nghiệp hạn chế được những tác động bất lợi từ bên ngoài.
4. Giá cả nông sản giảm giá mạnh và các khó khăn trong sản xuất nông nghiệp
Chưa bao giờ người nông dân Việt Nam phải đối mặt với những thử thách của biến động thị trường như năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã ảnh hưởng rất mạnh làm giảm giá nhiều ngành hàng nông sản. Theo báo cáo “Triển vọng thị trường trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu” của trung tâm thông tin Agroinfo, giá cả phần lớn các mặt hàng nông sản sẽ có xu hướng tăng trở lại trong trung hạn, song khó có thể phục hồi trở lại mức cao trước đây do kinh tế toàn cầu suy giảm.
Theo thống kê, năng suất lúa vụ thu đông năm nay bình quân 5-5,5 tấn/ha, năng suất này được xem là khá tốt, thế nhưng giá lúa trên thị trường lại đang xuống quá thấp, thị trường lúa gạo liên tục đóng băng khiến cho nhiều nông dân muốn bán lúa hè thu cũng không bán được. Đến nay khi ĐBSCL thu hoạch lúa thu đông, thì lúa hè thu vẫn còn tồn đọng một lượng khá, để giải phóng kho nhiều nông dân chấp nhận bán lúa hè thu với giá rất thấp. Bên cạnh đó, giá của các mặt hàng nông sản chuyên xuất khẩu như cao su, cà phê, tiêu, điều... đều rớt giá mạnh. Đến nay, giới chuyên môn cũng chưa thể nhận định chính xác tình hình thị trường của những mặt hàng này. Đây là hiệu ứng chung của tình trạng giá nông sản toàn cầu tụt giảm. Theo các chuyên gia, lý do chính khiến giá nông sản đi xuống là:
Thứ nhất, suy thoái kinh tế khiến sức mua giảm. Khủng hoảng tài chính bắt đầu tác động đến nông sản xuất khẩu từ tháng 9/2008. Cùng với đó, hầu hết các nước đều được mùa khiến giá nông, lâm, thuỷ sản giảm nhanh và ở mức quá thấp, tác động sâu sắc đến nông nghiệp. Nếu tháng 7/2008, kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam đạt kỷ lục 1,75 tỷ USD thì đến tháng 11/2008, con số này ước còn 1,2 tỷ USD, giảm gần 32%. Vụ Kế hoạch (Bộ NN-PTNT) nhận định, cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản... chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu hàng từ Việt Nam.
Thứ hai, giới đầu cơ bán tháo hàng dự trữ. Đã từ lâu thị trường nông sản thế giới hình thành những tập đoàn đa quốc gia. Cho dù lực lượng này có nhiều sự ràng buộc, kiểm soát và chi phối để hướng tới những hoạt động lành mạnh và công bằng, nhưng thực chất vẫn không tránh khỏi sự thiên vị cho những nhóm lợi ích cục bộ hoặc cho những nhà tư bản lớn. Vì vậy khi thị trường biến động thì phần nhiều rủi ro được gạt cho nhà sản xuất và các doanh nghiệp (DN) nhỏ. Mặt khác về cơ bản, hàng nông sản của VN chỉ tham gia ở khâu ít giá trị gia tăng, rủi ro cao và nhiều lệ thuộc. Các mặt hàng nông sản VN tuy chiếm giữ thị phần xuất khẩu không nhỏ trên thế giới nhưng chủ yếu ở khâu trồng cấy và thu gom sản phẩm thô. Những sản phẩm này được xuất cho các công ty nước ngoài. Họ chế biến, chắt lọc, phân đoạn làm nhiều tầng, thu nhiều khoản lời và đóng nhãn mác của họ bán cho người tiêu dùng. Vì chiếm giữ những phần ít rủi ro, lại nắm được thông tin đầu nguồn nên họ chủ động tránh được thiệt hại. Phần bất lợi đẩy về phía những khu vực sản xuất như nông dân của ta. Ngoài ra, hệ thống thị trường nông sản của chúng ta gần như bị tách rời quyền lợi, trách nhiệm giữa nhà sản xuất, tức là nông dân và nhà kinh doanh - các DN thu mua, xuất khẩu. Các DN này thực chất chỉ chọn công đoạn đơn giản nhất trong chu trình phân phối sản phẩm tức là thu mua. Họ có thể sơ chế đơn giản rồi bán sang tay cho các nhà chế biến nước ngoài. Người nông dân gánh chịu các biến động rủi ro của toàn bộ hệ thống vật tư, nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón, đất đai, thời tiết... cho ra đời sản phẩm thô với mức lợi nhuận khá thấp.
Thứ ba, do đồng USD tăng giá nên xu thế nhập khẩu nông sản không được khuyến khích Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, sự sụt giá đồng Đô la so với đồng euro và những đồng tiền chính khác đã kích thích tăng xuất khẩu nông sản. Do các nước xuất khẩu nông sản chủ yếu giao dịch bằng đồng Đô la nên khi Đô la giảm giá sẽ kích thích cầu tăng, áp lực đẩy giá lên. Ngoài ra, đồng Đô la giảm làm cho các nhà đầu cơ có xu hướng chuyển đầu tư từ nắm giữ Đô la sang nắm giữ các hàng hóa trong đó có nông sản. Những áp lực này đã thúc đẩy tăng cầu, kích thích giá nông sản tăng lên. Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 6/2008 đồng Đô la đã tăng giá mạnh so với đồng euro, dẫn đến một số tác động làm giảm giá hàng nông sản như sau: Giá hàng nông sản xuất khẩu tính theo Đô la trở nên đắt đỏ hơn, gây áp lực giảm giá xuất khẩu và nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng xuất khẩu (trong đó có hàng nông sản) ở các thị trường lớn giảm mạnh. Các quỹ đầu tư chuyển sang nắm giữ Đô la thay vì đầu tư vào hàng hóa trong đó có nông sản cũng gây áp lực giảm giá.
Do đa số các nước xuất khẩu nông sản, trong đó có Việt Nam, đều thu bằng Đô la nên giá nông sản tính theo Đô la giảm đã ảnh hưởng xấu đến thu nhập xuất khẩu. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác của vấn đề tỷ giá ít được nhắc tới, đó là tỷ giá của đồng tiền các nước này so với Đô la. Nếu đồng nội tệ mà giảm so với đồng Đô la sẽ thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại, và tính trên bình diện chung, nước nào giảm giá đồng nội tệ càng nhiều thì càng có ưu thế hơn trong thúc đẩy xuất khẩu. Tất nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá còn phụ thuộc vào các cán cân vĩ mô khác chứ không thể tùy ý phá giá chỉ để thúc đẩy xuất khẩu được. Số liệu cho thấy các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam ở các mặt hàng nông sản mũi nhọn như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Colombia…đều đã giảm giá mạnh đồng tiền so với đồng Đô la từ mức 13-33%, trong khi đó con số này với Việt Nam chỉ ở mức 5%. Như vậy, sự giảm giá đồng tiền đã vô hình trung làm cho các nước này hạn chế thiệt hại gây ra bởi suy giảm giá của thị trường thế giới.
Bên cạnh những khó khăn cho người nông dân do giá cả hàng nông sản giảm mạnh. Ngành nông nghiệp còn đang đối mặt với nhiều thách thức do hậu quả của thiên tai. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát cho biết, ngành nông nghiệp đang đối mặt với nguy cơ thiếu giống để khôi phục sản xuất sau đợt mưa lũ lịch sử vừa qua, đặc biệt là giống lúa cho vụ đông xuân tới. Thống kê gần đây nhất của Bộ NN-PTNT cho thấy, đã có 245.000ha cây vụ đông tại các tỉnh phía Bắc bị ngập chìm trong nước. Trong đó, diện tích mất trắng hơn 184.000ha (riêng lúa gạo là 61.600ha). Ngành nông nghiệp đang cần gấp một lượng giống lớn cho khoảng 100.000ha rau, 30.000ha khoai tây và 80.000ha ngô, chưa kể 250.000ha lúa cho vụ đông xuân tới bởi lúa dự trữ trong dân không còn nhiều do nước ngập làm hư hỏng. Theo tính toán của Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), riêng số tiền cần để mua giống cho vụ đông là 280 tỷ đồng (ngô 180 tỷ, rau 100 tỷ) và khoảng 200 tỷ đồng khác để chuẩn bị giống cho vụ đông xuân. Như vậy, số tiền cần để mua giống vào khoảng 480 tỷ đồng. Ngoài ra, số tiền để mua phân bón phục vụ sản xuất cũng rất lớn, lên tới 800 tỷ đồng. Mới đây, Ban Chỉ đạo PCLB TƯ đã kiến nghị Chính phủ hỗ trợ khẩn cấp 285 tỷ đồng cùng 1.500 tấn gạo và 45 tấn hạt giống rau để khắc phục hậu quả mưa lũ, khôi phục sản xuất vụ đông. Tổng số kinh phí cần thiết để mua giống và phân bón khoảng 1.300 tỷ đồng.
Theo dự báo, ngành nông nghiệp cũng khó khăn trong năm 2009, không chỉ xuất khẩu mà ngay cả thị trường nội địa. Để giải quyết khó khăn cho người nông dân và duy trì sản xuất nông nghiệp ổn định, theo các chuyên gia cần làm tốt các công việc sau.
Thứ nhất, cần giữ vững sản lượng cây lương thực (lúa, ngô) để đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ xuất khẩu 4,5-5 triệu tấn gạo; chăn nuôi, thủy sản tận dụng cơ hội giá nguyên liệu đầu vào giảm để thúc đẩy sản xuất, chiếm lĩnh thị trường trước khả năng thực phẩm nhập khẩu sẽ ồ ạt vào Việt Nam với giá rẻ. Song song đó, cải thiện mạnh mẽ việc thông tin, dự báo thị trường để có thể tận dụng cơ hội cho sản xuất, xuất khẩu, đảm bảo nông dân có thể ứng phó linh hoạt hơn. Đồng thời, phải kích cầu nội địa bởi một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cà phê, hạt điều, chè... lâu nay đều hướng ngoại tới 80-90% sản lượng.
Thứ hai, Chính phủ phải đẩy mạnh mua gạo tạm trữ quốc gia và dự trữ lưu thông, tăng cường xúc tiến thương mại, tăng cường đàm phán để ký các hợp đồng ở cấp Chính phủ. Vừa qua Chính phủ đã chỉ đạo cho các doanh nghiệp mua 300 ngàn tấn gạo tạm trữ, nhưng nếu không có chính sách cụ thể đi kèm thì rất khó cho doanh nghiệp, trong khi kho của các doanh nghiệp đang tồn hơn 800 ngàn tấn.
Thứ ba, về cơ bản, các quốc gia phải định hướng xây dựng một nền nông nghiệp bền vững đủ sức tự bảo vệ mình và một lực lượng nông dân có các mối liên kết tốt. Ví dụ nếu kinh doanh cà phê, chúng ta không chỉ thu gom mà cần có một chuỗi công nghệ khác để chế biến cà phê tan, cà phê bột, cà phê nhân, cà phê lạnh, rồi sôcôla... rồi phân phối đến người mua. Làm như vậy ta vừa được nhiều lợi nhuận vừa phân chia được rủi ro, không phụ thuộc quá lớn một thị trường nào. Tất nhiên, lúc này Nhà nước phải xây dựng những chính sách, cơ chế sao cho lợi nhuận được phân chia tương đối công bằng tới các thành viên: sản xuất, chế biến hay phân phối.
Tài liệu tham khảo
1. TS. Lê Đăng Doanh: “Kích cầu phải đi kèm cải cách”, 27/11/2008 – www.tuoitre.com.vn
2. Xuất khẩu nông sản: khó khăn chồng chất trong năm 2009, 26/11/2008 - www.vietnamnet.vn
3. Làm gì trong suy thoái?, 26/11/2008 – www.vneconomy.vn
4. Làm gì để chặn suy giảm kinh tế?, 24/11/2008 – www.vneconomy.vn
5. Doanh nghiệp mong muốn được hỗ trợ thị trường, 24/11/2008 – www.vietnamnet.vn
6. Nông dân trồng lúa lỗ đậm, 21/11/2008 – www.vneconomy.vn
7. Chính sách lãi suất dương: Hai nghịch lý, 19/11/2008 – www.dddn.com.vn
8. Gỡ khó cho xuất khẩu thời khủng hoảng, 12/11/2008 – www.vneconomy.vn
9. Một số nguồn khác
Nguồn: VNEP, tháng 11/2008
