
Tin tức
Tìm đầu ra cho DN: Cần sự chung tay của cả "ba nhà" (06/01)
06/08/2010 - 25 Lượt xem
Những tháng cuối năm 2008, lạm phát đã được kiểm soát ở mức rất thấp, chỉ số CPI cả năm 2008 là 22,97% so với năm 2007 và thấp hơn mức dự báo. Ba tháng cuối năm, NHNN liên tục cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14 %/năm xuống 8,5 %/năm; giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND từ 11% xuống còn 6%, ngoại tệ là 7%, tỷ giá hối đoái được mở rộng biên độ từ + 2,0% lên + 3,0% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng để khuyến khích xuất khẩu, đồng thời cho phép các NHTM được sử dụng tín phiếu NHNN bắt buộc trong các giao dịch tái cấp vốn cũng như thanh toán trước hạn nếu có nhu cầu. Theo đó lãi suất cho vay của các NHTM cũng liên tục giảm sâu. Mặc dù những biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ đã được triển khai, nhưng DNNVV vẫn không mặn mà trong việc vay vốn. Tại sao?
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do tác động của lạm phát, lãi suất cao được coi là công cụ hữu hiệu để kiềm chế lạm phát. Các NHTM điều chỉnh lãi suất lên cao: 18 - 21 %/năm, cùng với việc tăng giá nguyên, nhiên, vật liệu, đã làm tăng chi phí đầu vào của DN. Hàng hoá trở nên đắt đỏ, khó tiêu thụ, dẫn đến một bộ phận không nhỏ DN đã chọn cách sản xuất cầm chừng, năng lực đến đâu, đầu tư đến đó. Việc suy giảm đầu tư cùng với sự suy giảm thị trường tiêu thụ do sức cầu có khả năng thanh toán giảm thấp. Dấu hiệu này xuất hiện từ giữa năm 2008, cùng với những tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới về thị trường tiêu thụ, đã dẫn đến nhiều DNNVV phải ngừng hoạt động, thậm chí phá sản. Do đó, để DN phát triển, khắc phục suy thoái kinh tế, thì vấn đề cơ bản hiện nay không chỉ là được vay vốn với lãi suất thấp, mà điều quan trọng hơn là phải giải quyết thị trường đầu ra cho DN theo hướng sau:
Thứ nhất, về phía Chính phủ: Cần tập trung thúc đẩy đầu tư tư nhân (bao gồm hạ tầng, nhà ở cho người có thu nhập thấp, các dự án sản xuất, kinh doanh có chọn lọc... Bởi đây là khu vực đầu tư đang giảm nghiêm trọng, nhưng lại là khu vực đầu tư có hệ số sinh lời cao và vòng quay vốn nhanh.
Giúp DNNVV không có nghĩa là cứu tất cả, mà nhân dịp này rất cần phải cơ cấu lại. Những DN nào đã rệu rã thì cần loại bỏ, những DN nào mới chỉ mỏi mệt thì cần cho “uống thuốc” tăng lực. Đó mới thật sự là đầu ra cho DNNVV. |
Các cơ quan quản lý nhà nước: các bộ, ngành, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam... giúp DNNVV tìm kiếm thị trường tiêu thụ, bằng cách: thiết kế kênh cung cấp thông tin thường xuyên về thị trường, đặc biệt là những thông tin có tính dự báo, định hướng chính sách của Chính phủ (đây là khâu yếu của các DNNVV hiện nay), thiết lập quan hệ đối tác chiến lược ở nước ngoài, nâng cao chất lượng các chương trình xúc tiến thương mại thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao; phát triển hệ thống kênh bán buôn và bán lẻ trên diện rộng, để hàng hoá đến được các địa phương trong cả nước, mà trước mắt là trong dịp Tết cổ truyền của Việt Nam.
Về khía cạnh chính sách, rất cần một sự đồng bộ trong điều hành giữa chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK). Nếu chính sách tài khoá nhanh chóng được cụ thể trong việc hỗ trợ DNNVV như: hoàn thuế, miễn giảm thuế cho DN; hỗ trợ cho những DN khởi sự về mặt bằng sản xuất kinh doanh; khuyến khích các DNNVV đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu thông qua cơ chế hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh tín dụng... Có như vậy thì việc thực hiện nới lỏng chính sách tiền tệ mới phát huy tác dụng. Vừa qua, CSTK mới đề cập cắt giảm chi tiêu công, còn gói giải pháp kích cầu, trong một chừng mực nhất định chưa có những quy định cụ thể, để DNNVV biết và tiếp cận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Vì vậy, khả năng phục hồi của một số DN còn chậm, cho dù ngân hàng có cho vay với lãi suất thấp, đồng vốn cũng không ra được nền kinh tế như mong muốn. Do đó, điều hành CSTK rất cần một sự đồng bộ với CSTT. Khắc phục suy thoái kinh tế thì CSTK thậm chí phải đi trước và đóng vai trò chủ đạo, CSTT có vai trò hỗ trợ, khi đó mới có thể nhanh chóng tháo gỡ khó khăn cho DN hiện nay. Lúc này cần thiết phải nới tỷ lệ cho vay chứng khoán, nới tỷ lệ tham gia mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào các ngân hàng thương mại Việt Nam để kích thị trường chứng khoán khởi sắc. Các NHTM trong nước phải chấp nhận san sẻ thị phần để lấp đi những yếu kém về năng lực cạnh tranh, biến họ từ đối thủ sang đồng minh hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Một khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ tạo ra khối lượng lớn việc làm cho người lao động, cũng như tạo điều kiện cho DN huy động vốn trung và dài hạn qua thị trường chứng khoán.
Thứ hai, về phía DNNVV: Giúp DNNVV không có nghĩa là cứu tất cả, mà nhân dịp này rất cần phải cơ cấu lại. Hiện nay, tiêu chí để phân loại DNNVV chỉ dựa vào vốn và lao động, trong đó tiêu chí vốn là vốn đăng ký. Vốn thực tế hoạt động tại DN là bao nhiêu, có phù hợp với nhu cầu hoạt động kinh doanh không, thì rất khó đánh giá. Thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề thường trực tại các DNNVV. Do vốn ít, nhưng quy mô kinh doanh thường rất lớn, nên DN khó có điều kiện cải thiện môi trường làm việc, ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực quản trị hoạt động. Một khi có tác động bất lợi đến thị trường tài chính trong và ngoài nước, thì khả năng tự vệ của những DN này rất yếu. Vì vậy, không thể “cứu” những DN này, việc phải đóng cửa, chấp nhận phá sản là không tránh khỏi.
Thứ ba, tăng cường vai trò của các Hiệp hội DN. Trong tiến trình hội nhập, các hỗ trợ của Chính phủ khó thực hiện trực tiếp cho DN, nhưng biện pháp hỗ trợ gián tiếp thông qua Hiệp hội lại phù hợp với các quy định của WTO. Vì vậy, cần tăng cường vai trò của các Hiệp hội, để Hiệp hội không chỉ đại diện tiếng nói của DN, giúp DN trong lĩnh vực kinh doanh, mà còn hỗ trợ DN về quan hệ lao động, thực hiện trách nhiệm xã hội của DN.
Thứ tư, tạo sự đột phá trong việc cải thiện môi trường kinh doanh ở các địa phương. Vừa qua, VCCI và Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam, do cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ tài trợ đã công bố chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh về môi trường kinh doanh của Việt Nam 2008 (PCI 2008) cho thấy, PCI 2008 đã giảm so với năm 2007. Điều này cho thấy môi trường kinh doanh ở nhiều địa phương có sự giảm sút, đặc biệt về đào tạo lao động, chất lượng dịch vụ công cũng như chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Vấn đề này nếu không khẩn truơng giải quyết bằng cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thân thiện với DN và hỗ trợ DN phát triển, đào tạo lao động có chất lượng cao... sẽ khó có sự phát triển ổn định và bền vững của địa phương nói riêng và các DN Việt Nam nói chung.
Nguồn: DDDN
