Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

"Việt Nam không thể chỉ đi nhặt cơ hội mãi" (07/01)

06/08/2010 - 21 Lượt xem

2008: Đi nhặt cơ hội

- Năm 2008, VN đã trải qua nhiều biến động bất thường. Có thể rút ra những bài học gì ở đây, thưa ông?

Ts. Trần Đình Thiên (Quyền Viện trưởng Viện Kinh tế VN): - Đây là năm thứ hai hội nhập với hai câu chuyện nổi bật là lạm phát lên rất cao và đầu tư nước ngoài vẫn vào nhiều.

2008 là tiếp tục sự đột biến lạm phát hai tháng cuối năm 2007. Bài học đầu tiên là khi gặp phải một tình thế đột biến, năng lực phản ứng chính sách có vấn đề.

Vì cuối năm 2007, lạm phát bùng lên dù đã được cảnh báo. Đầu 2008, khi lạm phát đang lên chúng ta lại chặn đứng nguồn tiền bằng việc bắt ngân hàng thu tiền về khiến nguồn tiền cạn kiệt. DN tiếp cận vốn khó còn lạm phát vẫn lên cao. Chúng ta lại tiếp tục dùng thêm nhiều can thiệp hành chính khác. Cách ứng biến như vậy khiến tâm lý xã hội bất ổn.

Đến tháng 6, sau kỳ họp QH và chỉ thị của Bộ Chính trị, chúng ta tập trung vào một vài biện pháp thì đã  khống chế ngay được tình hình, tạo bình ổn về mặt vĩ mô.

Bài học rút ra là trong những tình thế như vậy phải ứng biến trên nền tri thức về kinh tế học căn bản, không thể là những phản xạ thông thường. Áp dụng những giải pháp căn bản là tình hình thay đổi.

Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng doanh nghiệp vẫn tiếp tục gặp khó khăn. Ngoài nguyên nhân từ chính sách tiền tệ, có nguyên nhân nào khác nữa không, thưa ông?

- Kinh tế vĩ mô đang dần ổn định nhưng DN lại đang phải trả giá. Điều này có nguyên nhân do DN đã đầu tư quá mức để ăn xổi theo thị trường chứng khoán, địa ốc vì thấy cơ hội nhiều. Ngân hàng thoải mái bơm vốn cho vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán quá dễ dàng, không ai can thiệp. Ngân sách nhà nước cũng vậy, thỏa sức đầu tư cho các tập đoàn.

Cả một môi trường làm ăn như vậy: cơ hội bày ra hết khiến họ thi nhau chụp giật mà không có hệ thống điều tiết tốt để kịp bình tĩnh. Người trả giá nặng nhất không hẳn là người tham gia vào trò chơi.

Bài học rút ra là phải có một môi trường kinh doanh định hướng đến những cách làm ăn lành mạnh, không chạy theo những cơ hội ngắn hạn và ăn xổi. Đây là bài học cho cả vĩ mô và vi mô.

Bài học thứ ba trong năm qua là đầu tư của doanh nghiệp nhà nước hiệu quả chưa cao, các tập đoàn phải tham gia giải tỏa ách tắc điện, hạ tầng, giao thông, các khu đô thị... thì lại đi làm trái ngành. Đáng lẽ năng lực này phải được tổ chức từ sớm để quyết và ngăn không cho nhảy sang lĩnh vực khác. 

Chúng ta đã thả lỏng một hệ thống phân phối nguồn lực để đi nhặt cơ hội. Trong khi đó, phải tích lũy cơ hội một cách hệ thống, bài bản, có tính chất lâu dài cho cả nền kinh tế và nhân cơ hội lên.

Rõ ràng cả nền kinh tế đang gánh hậu quả. Cả phía DN, chính phủ và hệ thống quản trị phát triển ở các cấp.

Tăng đột biến dự án khai thác tài nguyên

Nhưng năm qua, đầu tư nước ngoài cũng vẫn vào nhiều lên tới 60 tỷ USD?

- Cơ hội rất lớn nhưng cũng phải bình tĩnh xem xét vì cơ hội gắn với nguy cơ là, có những dự án cần cân nhắc xem có giúp gì cho VN về phát triển dài hạn không?

Kinh doanh là câu chuyện lợi nhuận. Vì vậy nếu chỉ kinh doanh kiểu ăn tức thì và lập tức bỏ chạy thì hậu quả gây ra rất lớn.

Hiện chúng ta đã phân cấp cho địa phương song nếu không dựa trên quy hoạch thì sẽ nhanh chóng dẫn đến một cuộc chạy đua ngân sách, để có dự án nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng, tăng thu cho ngân sách địa phương, lấy thành tích... xài cho hết các nguồn lực...

Một năm nhận tới 60 tỷ đầu tư (số vốn đăng ký - PV) trong điều kiện hạ tầng, nhân lực còn hạn chế, năng lượng thiếu, địa phương chưa kịp chuẩn bị các nguồn lực để đón nhận mà đã vội trao quyền cho họ. Đặc biệt là trong điều kiện quản trị và đối ứng của doanh nghiệp còn hạn chế thì có vấn đề. Cấp tỉnh chưa kịp chuẩn bị các nguồn lực mà đã trao cho họ quyền này thì kết cục là... ôi thôi rồi.

Ngoài chuyện phân cấp, cần lưu ý thêm vấn đề gì khác nữa?

- Cấu trúc dự án năm qua cũng nổi lên một số vấn đề.

Thứ nhất, các dự án khai thác tài nguyên đã tăng đột biến. Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng là tất cả các nguồn lực, theo nghĩa tất cả các thứ sẵn có đều được đem ra vắt kiệt thật nhanh.

Có quá nhiều dự án lọc dầu và do đó phải cung cấp nhiều tài nguyên cho các dự án này, đó là diện tích mặt bằng, năng lượng, nước, nguồn nhân lực chưa được đào tạo... Chưa kể, lọc dầu mà đặt bên cạnh dự án thép thì lấy đâu ra điện, nước?

Ngoài ra, tăng đột biến những dự án bất động sản liên quan đến những khu nghỉ dưỡng, sân golf.  Chẳng hạn đầu tư vài trăm hecta xây resort, cho thuê 10 năm, nhưng mỗi năm nhà đầu tư cứ lấy ra từng mẩu trong khi lẽ ra phải cam kết và hoạch định thời gian rõ ràng. Bởi quan trọng không chỉ là số tiền cho thuê mà là đất cho thuê được dùng để làm gì? Có tạo được việc làm, hút được khách nước ngoài, phát triển được các dịch vụ liên quan không?

Đầu tư nước ngoài phải nhìn vào những lợi ích như vậy.

VN là cơ hội, điểm đến, vậy cơ hội đó sẽ mang lại những lợi ích gì? Nếu tính toán kỹ thì sức hút đầu tư nước ngoài sẽ bền vững hơn.

2009: Khó khăn kép

Ông đánh giá như thế nào về khả năng đối phó với suy giảm kinh tế của VN năm 2009?

- Năm 2009 có đà rất tốt là đã ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát, nhập siêu. Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế đang yếu thì lại chịu tác động của suy thoái kinh tế thế giới.

So với các nước, hoàn cảnh của VN hơi khác. Nếu như ở các nước, bão tài chính dẫn đến suy thoái thì ở VN suy thoái đến trước tác động đến sản xuất việc làm tăng trưởng, tài chính công ty ngân sách nhà nước thì khi đó mới dội ngược lại hệ thống tài chính. Nghịch lý này làm cho khó khăn của hệ thống tài chính càng trầm trọng hơn.

Hiện nay hệ thống tài chính mới đang khó khăn nhưng năm tới sẽ bị tác động trầm trọng hơn. Chúng ta phải tính kỹ.

Dự báo tăng trưởng kinh tế giảm mạnh bằng nửa so với năm 2008. Đây là khó kép vì những thị trường khủng hoảng và suy thoái là những thị trường xuất khẩu nhiều nhất. Khu vực xuất khẩu là khu vực tạo nhiều việc làm  nhất, số DN nhỏ và vừa chiếm đông nhất, có số lao động thu nhập thấp đông nhất. Cũng là khu gắn với nông dân nhiều nhất, lúa gạo, nông sản, tôm cá...

Trong khi tình hình xuất khẩu đã căng thì nguy cơ hàng nhập khẩu, hàng Trung Quốc tràn sang, theo áp lực thị trường. Cạnh tranh với hàng Trung Quốc rất khốc liệt. Các doanh nghiệp sản xuất hàng trong nước cũng ăn đòn.

Niềm tin chuyển thành hành động?

Trước khó khăn kép này, theo ông, chúng ta làm cách nào để tháo gỡ?

- Chính phủ đã có bước chuyển rất rõ. Từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên chống suy thoái kinh tế. Nâng gói kích cầu từ 1 tỷ nâng lên 6 tỷ. Đây là tín hiệu để DN và mọi người thấy chính phủ cùng DN và nền kinh tế cùng chiến đấu. Đây là vấn đề niềm tin. Làm sao để niềm tin chuyển thành hành động.

Tôi cho rằng 6 tỷ đôla thể hiện thay đổi mạnh trong cách nhìn của chính phủ với tình huống đặt ra. Bản thân nó đã hàm nghĩa rằng quyết tâm và cách làm rõ ràng hơn nhiều.

Chọn giải pháp chống suy giảm kinh tế, Chính phủ có vẻ không cần phải cân nhắc quá lâu như khi chọn phương án chống lạm phát. Những Thông điệp chính phủ đưa ra khiến các ý kiến tranh luận cũng rõ ràng và tốt hơn

Bài học về kịp thời chuyển hướng chính sách khi điều kiện thay đổi lần này đã ứng dụng rất tốt. Rõ ràng, chính phủ cũng đã đưa ra tín hiệu đáng mừng, phù hợp tình hình và quyết tâm thay đổi rất rõ ràng.

Tất nhiên từ đấy chuyển thành kích cầu thật, ra tiền, ra tiêu dùng, sản xuất còn khá lâu. Thời điểm này cuối năm, bộ máy lo cho tết cũng nhiều. Ý kiến đề xuất lập đội đặc nhiệm là cần thiết, có ý nghĩa. Bộ máy bây giờ phải lo cả cho dân.

Kích cầu: Không phải bơm cho ai chạy dự án giỏi

VN đã từng có kinh nghiệm về việc đưa tiền ra để kích cầu vào thời điểm 1998 - 1999. Có thể rút ra được bài học gì để vận dụng vào lúc này?

- Kích cầu đã từng làm nhưng không phải trong bối cảnh chuyển từ lạm phát cao sang giảm phát. Kích cầu thời điểm 1998 - 1999 cũng có tác dụng phối hợp thị trường nhưng đã làm không thành công.

Lý do vì cơ chế xin - cho mạnh, thứ hai là tư duy bao cấp, lại bơm cho doanh nghiệp nhà nước. Di căn vẫn còn lại đến bây giờ.

Vì kích cầu không đúng kiểu, lại thành ra tiêu thụ hàng Trung Quốc. Lượng xe máy Trung Quốc đổ vào VN tăng vọt lên. Theo thống kê số tiền đổ ra mua xe máy Trung Quốc cũng lớn tương đương với số tiền bỏ ra để kích cầu.

Làm thế nào để tránh lặp lại sai lầm này?

- Nguy cơ luôn có vì đang gắn với cơ chế phân phối vốn chưa hoàn toàn căn cứ theo tín hiệu thị trường, năng lực bộ máy còn chưa theo kịp. Trong khi điều hành đang có sự chệch choạc cộng thêm tình huống khó, gấp thì dễ có sai lầm.

Vì thế nên có một bộ máy lão luyện, đưa ra các tiêu chuẩn phân phối vốn và tiêu chuẩn giám sát tốt. Điều này mới ngăn được nguy cơ không dám chạy dự án do điều kiện nghiệt ngã.

Đang có nhiều  lo ngại rằng bơm hơn 100 ngàn tỷ đồng ra có thể sẽ dẫn đến lạm phát? Ông có gợi ý nào về phân phối gói kích cầu này?

- Bơm ra gần 100 ngàn tỷ, đang lúc nền kinh tế yếu cần tính sự ổn định vĩ mô và đảm bảo việc làm. Thất nghiệp còn đáng quan ngại hơn so với sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Ổn định và việc làm sẽ tạo cơ sở khi quay trở lại với nhịp bình thường, có cơ sở cho phát triển lâu dài không bị khớp chỉ vì hì hục lo chống lại chuyện đối phó với suy thoái.

Đang có những dự báo lạc quan cho kinh tế thế giới thời điểm cuối năm 2009, chúng ta mà giữ dược để kịp bắt nhịp với đà tăng trưởng thì sẽ tốt hơn nhiều.

Gói kích cầu nên đúng đối tượng, nhằm vào các dự án tháo gỡ những ách tắc về hạ tầng, ưu tiên DN vừa và nhỏ, dệt may, gia dày, nông dân... Những dự án đáp ứng yêu cầu kích cầu phải xử lý ngay và có chuẩn xét duyệt.

Bơm theo dự án chứ không phải bơm cho ai chạy dự án giỏi. 

Ts. Nguyễn Quang A:

Xử lý khủng hoảng kép: Ưu tiên cái này, nhưng không được sao nhãng cái khác

Có chuyên gia cho rằng bây giờ chống thiểu phát, suy giảm kinh tế mới là ưu tiên trong khi nguy cơ lạm phát đã qua. Lại có người nói rằng nguy cơ lạm phát cao vẫn rình rập trong năm 2009 và chống lạm phát vẫn phải là ưu tiên. Thực ra mà nói, VN đã gặp khủng hoảng kép.

Chồng lên khủng hoảng riêng của chúng ta là tác động ghê gớm của khủng hoảng tài chính bùng phát vào giữa tháng 9 ở Mỹ, lan rất nhanh ra tất cả thế giới và biến thành khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Ban đầu nhiều người nghĩ ảnh hưởng của khủng hoảng này lên nền kinh tế VN không lớn, nhưng chính phủ đã mau chóng nhận ra tính nghiêm trọng của những tác động. Đầu tháng 12 chính phủ đã công bố ý tưởng kích thích kinh tế nhằm chặn đà suy giảm tăng trưởng với 5 hướng giải pháp và gói kích thích 1 tỷ USD. Đến giữa tháng gói kích thích được nâng lên 6 tỷ USD.

Kích thích để ngăn suy giảm tăng trưởng là ưu tiên trước mắt, còn không để cho lạm phát bùng phát trở lại trong tương lai (tuy theo tôi ít có khả năng trong xảy ra trong 6 tháng tới) là việc phải thường xuyên lưu ý. Chỉ ưu tiên việc này và sao nhãng việc kia đều nguy hiểm, tuy mỗi lúc ưu tiên có khác nhau.

Điều tối quan trọng trong chính sách của Nhà nước năm tới để hỗ trợ DN là phải tháo gỡ những cản trở hành chính. Các thắt nút cổ chai về luật pháp cần nhanh chóng được sửa vì chúng mang lại hiệu quả nhanh, sâu rộng và là tiền đề cho sự phát triển trong giai đoạn mới.

Thí dụ: Nhà nước nên bỏ ngay khoản 1 của Điều 476 Luật dân sự (quy định trần lãi suất 150%) có thể tháo gỡ cho các đối tượng này tiếp cận đến tín dụng dễ dàng hơn, khơi thông hoạt động của hệ thống ngân hàng và có thể có tác động tốt hơn cả gói kích thích 1 tỷ USD!

Ngoài ra, Nhà nước có thể hỗ trợ thông tin, hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ đào tạo và huấn luyện cho DN.

Năm 2008, chúng ta cũng đưa ra nhiều chính sách để hỗ trợ DN, nông dân... và các đối tượng bị tổn thương khác, nhưng chưa có hiệu quả, người dân không tiếp cận được với các hỗ trợ. Chúng ta cần xét lại thủ tục hỗ trợ, phương thức hỗ trợ.

Đầu năm chúng ta có chính sách hỗ trợ xăng dầu cho ngư dân (khi giá dầu khoảng 140 USD/thùng), nhưng lúc khó khăn nhất thì sự hỗ trợ chưa đến, hơn 6 tháng sau, khi giá dầu xuống dưới 40 UDDS/thùng, thì tiền hỗ trợ mới đến. Như thế là cứu trợ lại thành ra tốn chi phí thực hiện mà hiệu quả gần như bằng không. Người ta còn dự kiến học phí phải tăng 150%/năm, v.v.

Đó là những chính sách không nhất quán, chưa được tính toán kỹ và có vẻ như được đưa ra một cách ngẫu hứng để đối phó với mỗi hiện tượng, vụ việc chứ chưa được cân nhắc một cách thấu đáo.

Trong năm 2009, chính sách kinh tế của VN cần ưu tiên kích thích tăng trưởng theo hướng cải cách triệt để nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện các cân đối vĩ mô.

VN cần dỡ bỏ mọi rào cản để khu vực tư nhân phát triển một cách bình đẳng, nhằm chuẩn bị tốt cho giai đoạn sau khủng hoảng. Trong đó, cần trú trọng cải tổ triệt để mà chủ yếu là cổ phần hóa thực sự các DN nhà nước, cải cách hành chính, tháo gỡ các thắt cổ chai về hạ tầng, cải cách giáo dục, y tế.

Nguồn: Tuanvietnam.vn