Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Xung quanh gói kích cầu kinh tế: Phải tận dụng cơ hội vay vốn giá rẻ (22/01)

06/08/2010 - 27 Lượt xem

Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa - Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia - trao đổi với chúng tôi về gói kích thích kinh tế. Tiến sĩ cũng nhấn mạnh, mặt khác, phải huy động mọi nguồn lực thực hiện khẩn trương các dự án kinh doanh, tránh tình trạng kéo dài lề mề đến khi cầu chưa lên hẳn, nhưng lạm phát quay trở lại thì lãi suất phải tăng lên và cơ hội không còn...".

Ông dự báo thế nào về tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới đến kinh tế Việt Nam nói chung, hệ thống ngân hàng và các DN nói riêng năm 2009?

- Cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ đã lan sâu vào nền kinh tế thực của thế giới, với sức tàn phá khủng khiếp. Tuy nhiên, đã xuất hiện ánh sáng đầu tiên cuối đường hầm với việc tín dụng ngân hàng cho DN và cá nhân đã hồi phục yếu ớt ở Mỹ sau gần 4 tháng đóng băng. Mặc dầu Châu Á được coi là ít bị ảnh hưởng hơn, nhưng các nhà phân tích đều cho rằng, Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất, vì mấy lý do:

- Xuất khẩu của Việt Nam chiếm gần 70% GDP là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do cầu thế giới rất yếu, trong khi các đối thủ cạnh tranh có chi phí vốn thấp (lãi suất thấp) và đồng tiền yếu. Đồng thời, xu thế bảo hộ mậu dịch để hỗ trợ kích cầu ở nhiều nước cũng khiến cho cạnh tranh trong khu vực xuất khẩu trở nên rất khốc liệt.

- Đầu tư nước ngoài thực hiện cũng giảm mạnh, mặc dầu tác động của yếu tố này trong ngắn hạn không lớn lắm nhờ tỉ lệ tiết kiệm nội địa khá cao: 31%, chiếm 3/4 tổng đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, yếu tố này cộng với sự suy giảm của kiều hối - vốn là nguồn tài chính chủ yếu để bù đắp thâm hụt thương mại. Vì vậy, cán cân thanh toán quốc tế có thể thiếu hụt lần đầu tiên kể từ năm 2001. Điều này có thể gây bất ổn đối với tỉ giá hối đoái.

- Hơn nữa, bão tài chính ập đến trong bối cảnh Việt Nam đang gặp khó khăn lớn cả về vĩ mô lẫn vi mô. Lạm phát rất cao và mới có dấu hiệu giảm; thâm hụt thương mại rất lớn (đứng đầu Châu Á) và thâm hụt ngân sách khá cao và kéo dài từ nhiều năm; các DN đang rất ốm yếu sau một thời gian thắt chặt tín dụng hà khắc, chưa có dấu hiệu hồi phục. Điều này khiến cho dư địa kích cầu rất hẹp, kết quả sẽ bị hạn chế, trong khi rủi ro kinh tế vĩ mô khá lớn từ kích cầu trong trung hạn. Khu vực ngân hàng đang bước vào một giai đoạn thử thách mới.

Các dự báo cho rằng, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2009 mức cao nhất khoảng 6,5% và thấp nhất 4,3%. Lạm phát có thể giảm chỉ còn 8 – 9% trong năm 2009 và tăng lên trên 10% năm 2010. Lãi suất ngân hàng tiếp tục giảm và tỉ giá hối đoái sẽ tăng ở mức tăng của năm 2008 hoặc cao hơn chút ít. Thị trường chứng khoán tiếp tục đình trệ và có thể phục hồi chậm chạp vào nửa sau năm 2009. Thị trường bất động sản cũng có trạng thái tương tự.

Ông có nhận xét gì về kế hoạch kích thích kinh tế của Việt Nam nếu so sánh với các nước khác trong khu vực. Hiệu quả của gói kích cầu đối với nền kinh tế?

- Các chính phủ đều đang nỗ lực cứu trợ nền kinh tế với gói giải cứu cao nhất lên đến 30% GDP, gói kích cầu của Việt Nam khoảng 6% GDP. Các gói cứu trợ của Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản tập trung chủ yếu vào khu vực ngân hàng thương mại, với mục tiêu củng cố khu vực này và khôi phục lại tín dụng cho nền kinh tế.

Trong khi các gói giải cứu của Trung Quốc và một số nước khác tập trung vào kích cầu tiêu dùng nội địa, Việt
Nam thuộc nhóm nước này. Tuy nhiên, ngược với Việt Nam như đã nói trên, Trung Quốc kích cầu trong bối cảnh thuận lợi hơn nhiều do lạm phát thấp; cán cân vãng lai thặng dư lớn, ngân sách cân bằng, nghĩa là dư địa để nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khoá còn rất lớn.

Mặc dầu vậy, nhiều nhà kinh tế lo ngại sâu sắc rằng các chính phủ đang dùng chính nguyên nhân của khủng hoảng tài chính (nới lỏng tín dụng tràn lan) để cứu khủng hoảng. Điều này có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính mới trong trung hạn và đặc biệt đáng lưu ý đối với Việt
Nam.

Ngoài ra, các gói cứu trợ sẽ hạn chế quá trình huỷ diệt sáng tạo tự nhiên của thị trường, điều này hàm ý rằng một cuộc cải cách sâu rộng về cơ cấu kinh tế, cơ cấu hệ thống tài chính như hội nghị thượng đỉnh tháng 11 tại Washington nêu ra càng trở nên xa vời.

Thủ tướng Đức Angela Merkel đã cảnh báo tháng 11.2008: “Việc nới lỏng tiền tệ cho vay tràn lan tại Mỹ là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra. Tôi lo ngại sâu sắc về việc liệu chúng ta có đang làm cho xu hướng này trở nên trầm trọng hơn - thông qua các gói giải pháp đang được triển khai tại Mỹ và các nước khác và liệu chúng ta có thể lại phải đối mặt với chính cuộc khủng hoảng loại này trong năm năm tới”.

Làm thế nào để DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa - nhận được sự hỗ trợ thiết thực, kịp thời từ gói kích cầu của Chính phủ?

- Các DN cần hiểu rằng, sức mua tăng lên từ đầu tư công và lãi suất cho vay giảm là trụ cột của bất kỳ gói kích cầu nào. Nếu đầu tư công hướng vào cơ sở hạ tầng, bệnh viện, trường học, thuỷ lợi, môi trường và nhà giá rẻ thì các ngành này và các ngành phụ trợ liên quan là dòng chảy chủ yếu mà DN cần “giăng lưới” để có đầu ra dễ dàng.

Đồng thời, phải tận dụng cơ hội vay vốn giá rẻ từ ngân hàng hoặc thông qua quỹ bảo lãnh DNVVN để thực hiện nhanh các dự án, phương án kinh doanh đã lựa chọn. Nên nhớ rằng, cơ hội để có vốn giá rẻ không phải lúc nào cũng gõ cửa nhà mình, vì vậy các DN cần nghiên cứu, dự báo thị trường để có phương án đầu tư hiện đại hoá công nghệ (giá công nghệ cũng đang rẻ) cho mục tiêu cạnh tranh sau khủng hoảng.

Mặt khác khi “cá vào lưới”, các DN phải “giật” thật nhanh; nghĩa là phải huy động mọi nguồn lực thực hiện khẩn trương các dự án kinh doanh, tránh tình trạng kéo dài lề mề, tưởng bở, “nhai kỹ” đến khi cầu chưa lên hẳn, nhưng lạm phát quay trở lại thì lãi suất phải tăng lên và cơ hội không còn. Việc lạm phát quay trở lại và lãi suất tăng lên không phải chỉ ở Việt
Nam, mà có thể từ bên ngoài - ví dụ giá dầu tăng, giá vật liệu tăng hoặc lãi suất ở một số nước lớn cũng tăng.

Nguồn: Lao Động