Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Thay đổi cơ cấu để vượt qua khủng hoảng (24/04)

06/08/2010 - 35 Lượt xem

Ông Ronnie C. Chan, Phó chủ tịch Asia Society đã khai mạc hội nghị bằng một bài nói ngắn về những khó khăn, thách thức mà các nền kinh tế châu Á đang gặp phải. Ông cho rằng trong bối cảnh nền kinh tế đang đối mặt với những nguy cơ mới, điều quan trọng là phải nhận dạng được thách thức và tìm giải pháp để vượt qua nó. Hội thảo lần thứ 19 này cũng là một cơ hội tốt để các đại biểu trao đổi kinh nghiệm về những giải pháp giúp khắc phục hậu quả, và vận dụng linh hoạt tùy thuộc vào tình hình kinh tế của mỗi nước.

Lạc quan về tình hình châu Á

Chủ trì buổi tọa đàm đầu tiên với chủ đề “Khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Những tác động lâu dài đến châu Á và thế giới”, ông John Bussey, Trưởng văn phòng Washington của tờ Wall Street Journal, nhận định rằng, trong bối cảnh khó khăn chung, nền kinh tế châu Á đang có những dấu hiệu lạc quan hơn so với Mỹ. Có thể dự báo là kinh tế châu Á có thể chống chọi tốt hơn và cũng nhanh hồi phục hơn sau khủng hoảng, ông Bussey lấy ví dụ về kinh tế Trung Quốc.

Khi đề cập đến những khó khăn mà nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang gặp phải, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam Cao Viết Sinh cũng cho rằng bối cảnh khó khăn cũng là cơ hội thúc đẩy cải tiến.

Nói về tình hình chung của khu vực châu Á, ông Stuart Dean, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-Việt Nam (Ủy ban Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN), lạc quan cho rằng tình hình hiện tại vẫn khá tốt so với thời điểm cuộc khủng hoảng 1997-1999. Tuy vậy, châu Á cần tạo ra sự cân bằng kinh tế, không nên tiếp tục dựa quá nhiều vào xuất khẩu. Đối với nhà đầu tư, khủng hoảng đôi khi mang lại cơ hội, ông Dean nói, và minh họa bằng ví dụ về dự án của mình tại Hải Phòng để sản xuất thiết bị cho ngành công nghiệp điện gió. Ông nói rằng trong bối cảnh hiện tại, chi phí đầu tư một nhà máy tại Việt Nam đã rẻ hơn rất nhiều lần. Ông Syamal Gupta, Chủ tịch tập đoàn Tata (Ấn Độ) cũng đồng ý như vậy và bày tỏ mong muốn tham gia vào ngành xe hơi ở Việt Nam, bắt đầu bằng dự án xây dựng một nhà máy thép cỡ lớn.

Và e ngại về bảo hộ mậu dịch

Bà Charlene Barshefsky, cựu Đại diện Thương mại Mỹ, cho rằng qua đợt khủng hoảng này, có thể thấy rõ những ảnh hưởng bất lợi của quá trình toàn cầu hóa. Mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa của Mỹ đang bị xem xét lại. Và để đối phó với khủng hoảng, ngày càng nhiều quốc gia áp dụng những biện pháp bảo hộ mậu dịch đối với thị trường nội địa.

Tuy nhiên, theo quan điểm của bà, giải pháp này là bước thụt lùi trong xu hướng thúc đẩy thương mại toàn cầu. Trong khó khăn, bản thân chính phủ mỗi nước phải tìm những giải pháp để tăng cường nội lực và vẫn phải tiếp tục hướng đến một thị trường thương mại tự do.

Ông Huang Renwei, Phó chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Thượng Hải, đề cập đến những khó khăn mà nền kinh tế Trung Quốc đang gặp phải vì chính thế mạnh của mình trước đây – một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu (xuất khẩu chiếm 40% GDP). Ông cho rằng vấn đề lớn nhất của kinh tế Trung Quốc là mất cân bằng giữa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, giữa vùng duyên hải và các khu vực nằm sâu trong đất liền. Từ đó, ông cho rằng mô hình kinh tế Trung Quốc cần phải thay đổi.

Ông Syamal Gupta, Chủ tịch tập đoàn Tata, cũng bày tỏ mối lo ngại trước tình hình các quốc gia đang tích cực dựng lên các hàng rào tự vệ và bảo hộ mậu dịch, thể hiện qua hàng loạt các vụ điều tra, khởi kiện bán phá giá… và theo ông biện pháp tự vệ này đang ngăn chặn hoạt động giao thương giữa các nước.

Cần thay đổi cơ cấu kinh tế

Đại diện cho Việt Nam, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan bày tỏ mối lo ngại khủng hoảng kinh tế sẽ làm chậm lại quá trình giảm nghèo của các quốc gia ASEAN, và nhiều quốc gia trong khu vực này đang phải nỗ lực hơn nữa để đảm bảo vấn đề an sinh xã hội trong bối cảnh khó khăn này.

“Singapore là một ngoại lệ, đa số các nước ASEAN đang phải phấn đấu đạt đến mức thu nhập trung bình của thế giới, và đây là một mục tiêu quan trọng không dễ dàng thực hiện”.

Bà Lan đặt vấn đề cần xem xét lại chất lượng tăng trưởng của ASEAN. Đây là khu vực có tốc độ tăng trưởng khá cao, trung bình 6-7%/năm nhưng thực tế nhiều quốc gia có tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo đói cao, khoảng cách giàu-nghèo cao và an sinh xã hội không được bảo đảm.

ASEAN có thể phải xem xét, điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng của  một số quốc gia, vì trong một thời gian dài, sự phát triển của nhiều quốc gia dựa hoàn toàn vào xuất khẩu, phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xem lao động rẻ là thế mạnh cạnh tranh… và những điều này không bền vững trong bối cảnh một nền kinh tế toàn cầu chuyển động quá nhanh.

Theo bà Lan, ba vấn đề mang tính then chốt tại Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung hiện nay là cải tiến thể chế, nâng cao năng lực bộ máy quản lý; chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp hoặc công nghiệp thâm dụng lao động sang công nghiệp công nghệ cao; và phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú trọng đào tạo nâng cao kiến thức và tay nghề chuyên môn cho lao động. Một đề xuất khác bà Lan đưa ra, đó là việc các quốc gia ASEAN cần nâng cao nguồn vốn xã hội (social capital).

Bà Barshefsky lo ngại rằng cuộc khủng hoảng này sẽ kéo dài, và hậu quả lớn nhất mà nó tạo ra là tỷ lệ thất nghiệp cao mà có thể mất hơn 10 năm mới được giải quyết xong. Sau khủng hoảng, nhu cầu đặt ra là các nền kinh tế châu Á – vốn chủ yếu dựa vào xuất khẩu, sẽ phải tái cấu trúc lại để thích ứng với thực tế là nhu cầu thế giới sụt giảm do chi tiêu hạn chế.

Trả lời câu hỏi của một số đại biểu liên quan đến vấn đề thu hút FDI ở Việt Nam, bà Lan cho rằng đã đạt đến ngưỡng mà các cơ quan quản lý bắt đầu có những phân tích, lựa chọn dòng vốn, để đảm bảo nguồn vốn FDI là động lực phát triển kinh tế mà cũng tuân thủ những yêu cầu đặt ra về môi trường, sự phát triển của cộng đồng.

Cũng xoay quanh câu chuyện về chính sách bảo hộ, khi đề cập đến ảnh hưởng của giá dầu đến kinh tế toàn cầu, cả ba diễn giả là các ông Stuart Dean, John Bussey và Syamal Gupta đều chia sẻ quan điểm châu Á cần tập trung cho việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, thay vì giải pháp mà nhiều quốc gia hiện nay đang áp dụng đó là bù lỗ cho giá nhiên liệu từ khai thác dầu thô.

Trong bài phát biểu đầu hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam Cao Viết Sinh đã tóm tắt một số điểm chính về tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và quí 1-2009.

Ông xác định 3 khó khăn trước mắt mà Việt Nam đang gặp phải: nguồn thu từ xuất khẩu giảm sút; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm; nguồn thu ngân sách nhà nước năm nay không đạt kế hoạch, do nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô giảm và một loạt chính sách miễn, giãn, giảm thuế…

Ông Sinh cũng trình bày với các đại biểu về các chính sách kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng của Chính phủ Việt Nam và những chương trình hướng đến mục tiêu giảm nghèo.

Khi một giáo sư đến từ Úc đặt câu hỏi đặt câu hỏi Việt Nam làm thế nào để thu hút nguồn vốn đầu tư mạnh hơn nữa? Ông Sinh cho biết đến nay có hơn 10.000 dự án đầu tư nước ngoài đang triển khai, với tổng vốn hơn 160 tỉ đô la Mỹ. Hiện tại, Chính phủ đang tập trung vào 3 vấn đề chính là thu hút nguồn vốn đầu tư vào công nghệ cao, đặc biệt là ngành công nghiệp phụ trợ; thu hút vốn cho cơ sở hạ tầng; và đầu tư cho ngành giáo dục để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cao.

Một đại biểu đã hỏi ông Sinh về vấn đề tính minh bạch của hệ thống pháp luật và chính sách của Việt Nam, xuất phát từ những phản ánh của doanh nghiệp về một môi trường kinh doanh chưa có tính công bằng, về sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước trong việc tiếp cận các vấn đề liên quan đến đất đai, cơ hội đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Ông Sinh đã kể câu chuyện cách đây 15 năm, khi ông còn là Vụ phó Quản lý doanh nghiệp nhà nước, và thời điểm này Việt Nam có hơn 12.000 doanh nghiệp nhà nước. Thế nhưng, con số này đến nay chỉ còn khoảng 1.500, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công ích và một số ngành trọng yếu, và Việt Nam vẫn đang tiếp tục thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước.

Ông Sinh nói rằng Chính phủ Việt Nam tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước, cam kết đẩy mạnh cải cách hành chính và khẳng định không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước. Ông lấy ví dụ các gói kích cầu đầu tư và hỗ trợ sản xuất, kinh doanh của Chính phủ trong thời gian vừa qua cũng nhắm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có sự ưu tiên nào cho doanh nghiệp nhà nước.


Nguồn: TBKTSG