Về mặt thủ tục thì việc giãn nộp thuế thu nhập cá nhân tới đây mới trình Quốc hội quyết định cho miễn là rất phức tạp và có phần hơi nhiêu khê trong thực hiện.
Trường hợp Quốc hội không nhất trí thì việc đôn đốc thu nợ đọng là vô cùng nan giải cả cho người thu và cho người nộp. Người được giãn nộp thuế tuy không phải trả lãi nhưng cũng không dám tiêu vì sợ mắc nợ và sinh ra thiếu tin tưởng.
Trường hợp Quốc hội nhất trí thì rõ ràng là hiệu quả không cao mà còn tiếp tục phải tính đến tìm khoản bù đắp thiếu hụt này và tính đến sự công bằng đối với số đông những người nghèo đói, thất nghiệp khác đang cần sự trợ giúp của nhà nước trong bối cảnh khó khăn do suy giảm kinh tế hiện nay.
Đối với việc miễn, giảm thuế doanh nghiệp, đến nay cũng chưa có con số thống kê cụ thể số thuế miễn và giãn nộp cho doanh nghiệp theo quy định này là bao nhiêu.
Tại các cuộc hội thảo, có ý kiến dự định số giảm thuế do các tác nhân trong năm nay sẽ vào khoảng từ trên 50 đến 100 nghìn tỷ đồng. Xét trên bối cảnh thực tế hiện nay thì quyết định này cũng không mang lại hiệu quả cao và thủ tục hành chính trong miễn, giảm, giãn cũng đầy khó khăn.
Chẳng hạn như đối việc giảm thuế gián thu. Trong tình hình kinh tế suy giảm hiện nay, các doanh nghiệp tập trung vào sự quan tâm của đầu ra sản phẩm nhiều hơn là việc đầu tư mới.
Vì vậy, việc tập trung giảm đầu vào sẽ kém tác dụng. Một điểm nữa về thuế gián thu là trong khi thực hiện giảm thuế giá trị gia tăng, giãn miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đã mong giảm giá bán, thì đồng thời lại tăng thuế tiêu thụ đặc biệt là chưa nhất quán.
Còn về quá trình bù lãi suất thì mặc dù lượng tín dụng giải ngân tăng lên, tính đến ngày 17/4/2009 đạt trên 236 nghìn tỷ đồng (bằng khoảng 20% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế) nhưng dư nợ tín dụng là không cao cho nên phần đầu tư mới, phát triển sản xuất để tăng cung là rất hạn chế.
Có thể nói, chương trình bù lãi suất chủ yếu có tác dụng ổn định, lành mạnh hoá tài chính cho doanh nghiệp và ngân hàng, ít có tác dụng trực tiếp tới kích cầu đầu tư và ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
Nhưng việc ổn định, lành mạnh hoá tài chính cũng là một trong những phương pháp hiệu quả để doanh nghiệp “đứng lên” và vượt qua sóng gió, như thế cũng có thể coi là một giải pháp gián tiếp chặn suy giảm kinh tế, thưa ông?
Cũng không hẳn là như vậy, vì việc bù lãi suất vừa qua còn có thể dẫn đến một hệ luỵ khác là hạn chế sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường.
Rõ ràng là trong kinh doanh, nhất là lúc gặp khó khăn, suy giảm kinh tế, những doanh nghiệp yếu kém phải được thay thế, lột xác dần dần để kinh tế phát triển.
Nhưng với việc bù lãi suất, số doanh nghiệp yếu kém có thêm thời gian tồn tại, vô hình chung hạn chế sự cạnh tranh, kéo dài sự yếu kém trong nền kinh tế.
Sau một loạt những băn khoăn kể trên thì những kiến nghị của ông để giải toả cho những gút mắc này là gì?
Việc miễn, giảm, giãn nộp thuế chỉ thực hiện trong phạm vi đã quy định, không nên mở rộng thêm cả về loại thuế, đối tượng và thời gian. Không nên kéo dài thời gian bù lãi suất vì sẽ thành trở ngại cho việc điều chỉnh lãi suất và tỷ giá. Hiện giá USD đã lên quá trần, nếu không đưa lãi suất lên thì khó khăn cho huy động vốn và phát hành trái phiếu.
Quan tâm điều chỉnh tỷ giá để giải phóng nguồn USD đang tích trữ trong dân. Đây là nguồn lực lớn giúp ngân hàng hạ lãi suất trong huy động và cho vay, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại tệ và giúp Chính phủ vay nợ trên thị trường với lãi suất hợp lý.
Chính phủ cũng phải rất thận trọng với việc tăng vay nợ (hoặc bảo lãnh vay nợ) bằng ngoại tệ, đặc biệt là bằng USD. Trong tương lai không xa, lạm phát tại Mỹ sẽ tăng kéo lãi suất USD tăng theo, do Fed đã bơm quá nhiều tiền vào lưu thông.
Mặc dù hiện nay, Chính phủ Việt Nam có thể vay USD với lãi suất thấp (tại Việt Nam) nhưng sau 1 - 2 năm, nếu không trả nợ được ngay, nhiều khả năng Chính phủ sẽ phải vay với mức lãi suất cao, thậm chí có thể rất cao.
Xin trân trọng cám ơn ông!
Nguồn: Dân Trí