
Tin tức
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: Đã đổi phải mới (15/05)
06/08/2010 - 24 Lượt xem
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này dường như sự tham gia của DN có vẻ còn rất hạn chế. Nhìn vào toàn bộ báo cáo của Bộ LĐ - TB - XH, hầu như vai trò của DN còn rất thiếu vắng.
Mục tiêu của đề án đặt ra là có tới 70 – 80% trong tổng số 12 triệu lao động qua đào tạo sẽ tìm được việc làm. Đây là một thách thức lớn. Chính vì vậy, một số ý kiến cho rằng cần tính kỹ nhiều yếu tố như lao dộng được đào tạo đúng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, hoặc làm sao khắc phục tối đa những hạn chế của cơ chế xin – cho.
Đào tạo đúng nhu cầu
Theo Bộ LĐ - TB - XH, đề án được chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ 2009 - 2010 sẽ đào tạo khoảng 800.000 lao động nông thôn và bồi dưỡng 100% công chức cấp xã. Giai đoạn 2 từ 2011 - 2015, đào tạo nghề cho 5,2 triệu lao động nông thôn và khoảng 500.000 lượt cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo. Giai đoạn cuối của dự án từ 2016 - 2020, sẽ có 6 triệu lao động nông thôn và tiếp tục khoảng 500.000 lượt cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo. Tổng số lao động nông thôn được đào tạo của đề án khoảng 12 triệu lao động (trong đó khoảng 8 triệu lao động phi nông nghiệp và 4 triệu lao động nông nghiệp).
Như vậy, giai đoạn 1 của đề án có thể được xem như giai đoạn đưa ra nhiều thử nghiệm, đánh giá để rút kinh nghiệm cho 2 giai đoạn sau. Mục tiêu chính vẫn là chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu của DN và sự phát triển của nền kinh tế.
Thực tế hiện nay, những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường lao động VN là thiếu thông tin và những dự báo, xu hướng phát triển của thị trường lao động. Chúng ta vẫn thiếu kế hoạch nguồn nhân lực phục vụ cho yêu cầu hoạch định và thực thi chính sách ở tầm vĩ mô cũng như phục vụ cho yêu cầu, kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN và định hướng nghề nghiệp cho người lao động.
Thứ trưởng Bộ LĐ - TB - XH Đàm Hữu Đắc đã đưa ra điểm khác biệt cơ bản của đề án đào tạo lần này so với các chương trình đào tạo trước đây là hướng mục tiêu của đào tạo tới đáp ứng nhu cầu các DN. Các trung tâm và cơ sở đào tạo sẽ không đào tạo theo khả năng mà mình có. Thay vào đó, các cơ sở đào tạo sẽ căn cứ vào mục tiêu của các DN trong từng giai đoạn cụ thể để đào tạo.
Tuy vậy, để làm đạt được mục tiêu 70 – 80% lao động qua đào tạo tìm được việc làm thì còn khá nhiều câu hỏi cần đặt ra. Trước hết chúng ta cần phải xác định rõ là đào tạo cái gì? Cho ai? Học xong thì họ sẽ làm việc ở đâu? Sản xuất ra hàng hóa để bán cho ai? Theo GS Võ Tòng Xuân – chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo, cái khó nhất của nông dân là đầu ra của sản phẩm. Điều này khống chế khả năng cũng như ham muốn đi học của người dân. Phải biết được thị trường đòi hỏi gì để xây dựng vùng nguyên liệu cho phù hợp, từ đó huy động nông dân sản xuất. Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để người nông dân thoát khỏi tư tưởng tiểu nông, biết tự giác kết hợp với nhau thành từng nhóm theo các mô hình hợp tác xã, trang trại hay tập đoàn, ở đó có sự phân công lao động rõ ràng. Khi đó, phải có tay nghề thì họ mới có thể tồn tại được trong bộ máy này.
Còn TS Lê Đăng Doanh thì lại có quan điểm: Nếu chỉ có các trường thì không thể làm được. Theo TS Doanh, cần có một sự liên kết chặt chẽ hơn nữa trong tam giác ba "nhà”: Nhà nước, nhà trường và nhà DN. DN cần phải đầu tư công sức và một phần kinh phí của mình cho công tác đào tạo.
Bên cạnh đó, các trường nghề và DN phải tìm được tiếng nói chung qua việc thiết lập quan hệ hợp tác, hỗ trợ đào tạo nghề. Đây mới là giải pháp thiết thực nhất để rút ngắn khoảng cách trong hoạt động đào tạo, giới thiệu việc làm, cung ứng lao động của trường nghề với yêu cầu của DN.
Một đại diện của Tập đoàn Dệt - May VN cho rằng, mô hình liên kết đào tạo giữa DN và nhà trường tạo nên sự đảm bảo phát triển bền vững. Nhiều học sinh có năng lực phù hợp sẽ định hướng học nghề thuộc một số lĩnh vực trong từng DN cụ thể. Sau khi ra trường, những người này sẽ là các thành viên tích cực của DN. Mô hình liên kết có thể là giữa công ty và nhà trường ký với nhau một khế ước cung ứng và đảm bảo việc làm cho sinh viên khi tốt nghiệp.
Nhưng ngược lại, đối với các DN cần tuyển dụng lao động cũng nên có cơ chế đóng góp với nơi đào tạo lao động cho mình. Chỉ có thế, các DN mới trở thành người "cấy trồng", "thâm canh" chứ không phải là người "hái lượm" như không ít DN hiện tại.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần xây dựng trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và cập nhật thông tin thường xuyên. Công tác đào tạo cần đẩy mạnh đổi mới chương trình, phương pháp dạy học cho phù hợp. Cán bộ giảng dạy cũng cần được tăng cường năng lực thực tế. Bên cạnh đó, nhà trường và DN phải hợp tác với nhau, giáo dục đào tạo phải là bạn đồng hành của DN. Một điểm mới của đề án đã được rất nhiều nhà tuyển dụng lao động đón mừng. Theo Thứ trưởng Đàm Hữu Đắc, để án sẽ dành một phần kinh phí rất lớn để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề (khoảng trên 5.000 tỷ đồng). Các thiết bị đào tạo về cơ bản sẽ sát thực tế hơn và sẽ giống như mô hình sản xuất và thiết bị của DN.
Xóa bỏ cơ chế xin - cho
Theo Bộ LĐ - TB - XH, đề án sẽ được tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình thực hiện ở các cấp hàng năm, giữa kỳ và cuối kỳ. Các đơn vị kiểm tra, giám sát sẽ báo cáo, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu của đề án. Đồng thời, giám sát chặt chẽ tình hình quản lý và sử dụng ngân sách ở trung ương, và các địa phương.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn tỏ ra băn khoăn vì đề án có nguy cơ nảy sinh cơ chế xin – cho. Mà suy cho cùng, đã là cơ chế xin – cho thì sẽ nảy sinh tiêu cực, từ bệnh thành tích đến chất lượng đào tạo... Theo một khảo sát của Ngân hàng Thế giới, có đến 50% các công ty về may mặc, hóa chất đánh giá lao động được đào tạo không đáp ứng nhu cầu của mình. Khoảng 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng cần được đào tạo lại ngay sau khi tuyển dụng.
Nhiều DN nhận xét, nội dung các môn học trong chương trình còn nặng tính lý thuyết. Phương pháp giảng dạy thiếu tính tư duy. Kiến thức trong giáo trình chậm đổi mới so với thực tế. Ông Vũ Duy Nam – TGĐ Cty may Nhà Bè than phiền: Công nhân sau khi tuyển mới phải qua đào tạo từ ba đến sáu tháng mới dám giao việc. Nhưng đó mới là những việc phụ, Cty chưa dám giao việc chính.
Quan sát những "ngày tuyển dụng" rầm rộ được tổ chức ở các thành phố lớn chúng ta thấy vô vàn "nhà tuyển dụng" và bạt ngàn người trẻ có chứng chỉ nghề đến tham gia. Nhu cầu rất nhiều song tuyển dụng không được bao nhiêu, tỷ lệ chỉ vài phần trăm. Thực tế nếu đề án đào tạo theo một cơ chế cấp phát, xin - cho thì rất khó tránh bệnh khoa trương, thành tích để tiếp tục xin thêm kinh phí. Nhiều người tỏ ra băn khoăn: Tỷ lệ lao động qua đào tạo tìm được việc làm cũng khó tìm được con số đích thực.
Cơ sở tham gia đào tạo của đề án đã được mở rộng theo hướng xã hội hóa. Đề án huy động tất cả các cơ sở đào tạo thuộc các bộ, ngành, địa phương, tổ chức chính trị - xã hội và tư thục, bao gồm cả các DN và các cơ sở sản xuất kinh doanh có đăng ký hoạt động dạy nghề. Theo Bộ trưởng Cao Đức Phát, có 179 nghề cần phải đào tạo cho nông dân, đồng thời cần phải thay đổi cung cách đào tạo, để người nông dân được chọn trường, chọn nghề cần học. Trường đào tạo nghề cho nông dân không nhất thiết là trường của nhà nước, do vậy cần đẩy mạnh xã hội hóa và đào tạo nghề cho nông dân phải gắn với thực tiễn.
Thực tế mô hình các trường nghề thuộc DN đang hoạt động rất hiệu quả. Ưu điểm lớn nhất là sản phẩm đào tạo ra phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng của DN. Chương trình đào tạo được xây dựng sát với thực tế sản xuất của DN, tác phong lao động công nghiệp đã được hình thành ngay trên giảng đường. Hiệu quả của mô hình này là có tới 80 - 90% học viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp. Trường thuộc DN cũng là một ví dụ về tính hiệu quả của công tác đào tạo.
Tuy nhiên nhìn rộng hơn, một trong những nội dung đem lại hiệu quả cho đề án vẫn là vấn đề liên kết giữa nhà trường và nhà DN. Nay công tác đào tạo lại có thêm sự hỗ trợ về kinh phí từ ngân sách nhà nước. Cộng thêm việc đề án được xã hội hóa, công tác đào tạo đang mở ra nhiều thuận lợi lớn. Vấn đề chỉ còn là làm thế nào để ngân sách nhà nước được bỏ ra hiệu quả. Người nông dân sẽ được đào tạo đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhiều người đặt câu hỏi: Liệu đề án có tạo một cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở đào tạo công – tư ? Liệu cơ quan chủ trì đề án có xây dựng một cơ chế đấu thầu công khai việc triển khai thực hiện đào tạo ?...
Giáo sư Võ Tòng Xuân - Nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH An Giang:
Trước hết phải có các DN mạnh
Điểm yếu nhất của lao động ở nông thôn hiện nay, là tư duy còn mang nặng tư tưởng tiểu nông, làm ăn nhỏ lẻ, thiếu tính tổ chức, thiếu quy hoạch. Bên cạnh đó, kiến thức văn hóa cũng là vấn đề đáng quan tâm. Từ đó dẫn tới khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến còn nhiều hạn chế. Với nguồn nhân lực như vậy, có thể thấy nhu cầu học nghề của số đông lao động nông thôn là rất lớn. Tuy nhiên, cần phải tính toán cho kỹ, xem dạy cái gì, dạy như thế nào để người nông dân có thể tiếp thu được kiến thức và kỹ năng tay nghề, dùng kiến thức và tay nghề đó để làm ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp, tăng thu nhập. Bên cạnh đó, vấn đề mấu chốt của nông thôn VN hiện nay là chúng ta chưa có nhiều DN sáng giá, có thương hiệu mạnh, đủ sức đứng vững trên thị trường. Mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại theo tôi, cũng như từ kinh nghiệm thực tế ở nhiều nước khác, là phải dựa trên cơ sở những DN mạnh. Những DN này sẽ tìm hoặc mở thị trường, đồng thời tổ chức các vùng nguyên liệu và các cơ sở chế biến hiện đại để tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm. Một số lượng lớn nông dân sẽ được tập trung để phục vụ hoạt động của các DN này. Họ sẽ được đào tạo để có kiến thức và tay nghề thích hợp làm nhiều công việc khác nhau, như nuôi trồng nguyên liệu, đảm nhiệm các công đoạn trong bảo quản, chế biến cũng như tham gia các khâu dịch vụ... Vậy thì, việc đào tạo nghề phải căn cứ vào nhu cầu thực tế của các DN.
Có thể thấy rõ mối liên kết tay ba trong việc đào tạo và sử dụng lao động: Nhà nước đóng vai trò quản lý và ban hành những chính sách khuyến khích, hỗ trợ; DN đóng vai trò chủ đạo trong việc tổ chức đào tạo; người nông dân là chủ thể của quá trình đào tạo, có nhiệm vụ tiếp thu kiến thức, kỹ năng và vận dụng vào thực tiễn lao động. Không nhất thiết phải đào tạo theo kiểu chính quy, mà có thể vận dụng những phương thức đào tạo linh hoạt. Điều cốt yếu là họ phải được đào tạo theo các tiêu chuẩn cụ thể, gắn liền với nơi sử dụng khả năng của họ. |
Nguồn: DDDN
