
Tin mới
Gói kích cầu: phải triệt để và minh bạch hơn (19/05)
06/08/2010 - 22 Lượt xem
Tại cuộc hội thảo có chủ đề “Ngăn chặn suy giảm kinh tế Việt Nam” (*) vào cuối tuần qua tại Hà Nội, các chuyên gia kinh tế đã phân tích sâu về các gói kích cầu này như một cách để tăng hiệu quả trong việc triển khai thực hiện.
Thêm hai tiêu chí: triệt để và minh bạch
“Về lý thuyết, mục tiêu của các biện pháp tổng thể nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và kích thích phục hồi kinh tế mà Việt Nam đang thực hiện là rõ ràng và đúng hướng”, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam, Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế quốc dân, phát biểu tại cuộc hội thảo.
Trong một công trình nghiên cứu về khủng hoảng tài chính Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam được công bố hồi tháng 4 vừa qua, ông Nam và các cộng sự đã chỉ ra những hạn chế mà các gói kích cầu cần phải hoàn thiện trong thời gian tới.
Ví dụ như nhóm 15 giải pháp cấp bách hỗ trợ xuất khẩu còn chung chung, mới dừng lại ở định hướng, chưa cụ thể hóa thành các hành động cụ thể, chưa phân công rõ trách nhiệm cơ quan thực hiện và nguồn lực tài chính thực hiện lấy ở đâu.
Nhóm 9 giải pháp kích cầu đầu tư còn một số hạn chế như chưa làm rõ mục tiêu cụ thể của đầu tư trong bối cảnh khủng hoảng và đầu tư cho tái cấu trúc nền kinh tế, định hướng đầu tư dàn trải, chú trọng đến giải ngân vốn hơn là việc cơ cấu lại các khoản đầu tư. Các biện pháp kích cầu tiêu dùng còn chung chung, chưa có cơ sở khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng chiến lược như xăng dầu, than, nước sạch giảm giá mà thậm chí, lại tạo cơ sở cho doanh nghiệp tăng giá.
Điển hình như trường hợp tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tăng giá điện, khiến nền kinh tế chịu thêm áp lực chi phí đẩy, có thể tác động gây ra tình trạng “đình-lạm” (đình đốn và lạm phát), theo nhận định của Tiến sĩ Trần Việt Tiến, cũng từ Đại học Kinh tế quốc dân.
Nếu phân tích rõ hơn, tác động của 9 nhóm giải pháp thuộc chính sách tài khóa bị hạn chế, chưa triệt để được vì một số lý do. Đó là thời gian áp dụng việc giảm, giãn thuế chỉ trong quí 4-2008 là quá ngắn, khiến cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang thua lỗ sẽ không có cơ hội thụ hưởng chính sách. Hay như biện pháp về thuế giá trị gia tăng mới chỉ dừng ở việc đẩy nhanh khâu hoàn thuế nên mức độ tác động của chính sách cũng bị chậm lại.
Ông Nam phân tích thêm, tác động của việc hỗ trợ lãi suất 4% tới chi phí sản xuất còn thấp do chi phí lãi suất chỉ chiếm khoảng 5% giá thành, trong khi đó việc hỗ trợ lãi suất thời gian đầu chỉ dành cho vốn lưu động và chỉ kéo dài đến hết năm 2009 là quá ngắn.
“Quyết định 443/QĐ-TTg hôm 4-4 đã khắc phục được thời gian vay vốn, kéo dài thành trung hạn nhưng việc áp dụng hỗ trợ lãi suất 4% vẫn chưa thực sự phù hợp”, theo quan điểm ông Nam. Vì ông cho rằng, đáng lẽ với các khoản vay để đầu tư mới và phát triển hạ tầng với thời hạn hai năm cần có mức hỗ trợ cao hơn, ví như áp dụng mức lãi suất hỗ trợ đặc biệt với các tổ chức, cá nhân vay vốn đầu tư mua sắm các thiết bị công nghệ hiện đại.
Cẩn trọng với “chạy” vốn kích cầu
Tiến sĩ Trần Việt Tiến cho rằng trong quá trình thực hiện gói kích cầu cần phải xóa bỏ hiện tượng “chạy dự án” mà trong thời điểm này có thể gọi là “chạy kích cầu”. Nếu để hiện tượng này xảy ra thì lượng vốn Nhà nước bỏ ra để kích cầu sẽ dàn trải và không hiệu quả.
Theo dự kiến cơ cấu chi của gói kích cầu 17.000 tỉ đồng thì thứ tự ưu tiên cho các dự án được vay hỗ trợ lãi suất như sau: 50% dành cho phát triển cơ sở hạ tầng, 25% cho nông nghiệp và nông thôn, 5% cho phát triển nhà ở xã hội và 20% còn lại cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trên thực tế nhiều năm qua, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng (đặc biệt dùng vốn nhà nước hoặc vốn vay các ngân hàng quốc doanh) thường hay chậm giải ngân, làm thất thoát đồng vốn và chậm đi vào cuộc sống.
Do vậy, nếu không giám sát chặt chẽ và minh bạch đường đi của những đồng vốn này thì hiệu quả của gói kích cầu e rằng bị phản tác dụng. Sự lo ngại này không phải không có cơ sở khi mà việc giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản bốn tháng đầu năm chỉ bằng 27,9% kế hoạch. Trong khi đó, Chính phủ lại quyết định “bơm” tiếp 20.000 tỉ đồng vốn trái phiếu vào các dự án loại này, tạo thêm áp lực giải ngân nguồn vốn trái phiếu 64.000 tỉ đồng trong năm nay.
“Nếu không tính toán cẩn trọng, thì những căn bệnh hiện tại trong bộ máy nhà nước như tham nhũng, thiếu minh bạch, xung đột lợi ích sẽ đưa các gói kích thích kinh tế này đến một kịch bản không thể lường trước được”, Tiến sĩ Phạm Tất Thắng, Phó tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, cảnh báo.
Để hoàn thiện thêm gói kích cầu, Giáo sư, Tiến sĩ Cao Cự Bội (Đại học Kinh tế quốc dân) cho rằng vấn đề thẩm định dự án vay và dự án đầu tư, nếu không được làm đúng chuẩn mực sẽ gây lãng phí và thất thoát vốn kích cầu. Ông Nam đề xuất xây dựng các bộ tiêu chí cụ thể để doanh nghiệp, hộ gia đình có thể tự đánh giá mức độ thụ hưởng từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, công khai đối tượng và danh sách thụ hưởng trên website của các đơn vị quản lý và giám sát các chương trình kích cầu. Cũng có thể thiết lập đường dây nóng để người dân và doanh nghiệp tham gia hiệu quả hơn vào quá trình giám sát các gói kích cầu.
_______________________________________
(*) Hội thảo do Đại học Kinh tế quốc dân, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức.
Nguồn: TBKT SG
