Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

An ninh lương thực, không đơn thuần là giữ đất (08/06)

06/08/2010 - 19 Lượt xem

Lúa ngày càng bị lấn

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên - Môi trường, giai đoạn từ năm 2000- 2007, diện tích đất trồng lúa đã giảm 360.000 héc ta, phần lớn tập trung ở hai vựa lúa lớn nhất nước là đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Tuy nhiên, tỷ lệ giảm đất lúa cao nhất lại ở vùng Đông Nam bộ, với tỷ lệ giảm đến 23,1% trong giai đoạn này. Theo ông Đỗ Đức Đôi, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ và Thông tin đất đai (Bộ Tài nguyên - Môi trường), diện tích lúa giảm khiến sản lượng lúa giảm theo từ 0,4-0,5 triệu tấn/năm và ảnh hưởng đến đời sống của ít nhất 100.000 hộ nông dân/năm.

Theo Bộ NN&PTNT, phần lớn diện tích lúa bị giảm là do chuyển sang đất phi nông nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản. Nhiều công trình giao thông, phát triển khu dân cư, khu công nghiệp... đã khiến diện tích lúa ngày một thu hẹp. Đến đầu năm 2008, diện tích đất trồng lúa cả nước chỉ còn hơn 4,1 triệu héc ta.

“Thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa có nhiều tác động lên sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng”, Tiến sĩ Hà Thanh Toàn, Phó hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ, phân tích. Theo ông, với định hướng phát triển kinh tế theo xu hướng giảm dần vai trò của khu vực I (nông nghiệp), tăng khu vực II (công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (thương mại và dịch vụ) khiến đất nông nghiệp thu hẹp dần, lại phải đa dạng, không thể độc canh cây lúa.

“Chúng ta đang chuyển nhiều vùng đất phì nhiêu sang... bê tông”, Giáo sư Đỗ Kim Chung, cán bộ trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, khẳng định. Theo ông, diện tích lúa giảm đã tạo ra những thách thức cho ANLT và việc làm cho nông dân. Hiện tại, lượng lúa tiêu thụ hàng năm của Việt Nam vào khoảng 29,2 triệu tấn, trong đó dành cho người ăn và dự trữ khoảng 21,5 triệu tấn, dùng chăn nuôi 6,4 triệu tấn, để làm giống 1,1 triệu tấn, chế biến 0,2 triệu tấn. Giai đoạn 2000-2008, diện tích gieo trồng lúa giảm bình quân 0,4%/năm, nhưng nhờ năng suất tăng bình quân 2,7%/năm nên Việt Nam vẫn cơ bản giải quyết được vấn đề thiếu đói.

Tuy vậy, theo ông Chung vẫn còn 6,7% số hộ thiếu đói lương thực. Và theo dự báo, dân số Việt Nam tiếp tục tăng bình quân 1-1,2%/năm trong vài thập niên tới, trong khi diện tích lúa giảm dần và năng suất cũng khó tăng thêm. Do đó, ông Chung tính toán rằng, dù lượng gạo tiêu dùng trên đầu người sẽ giảm dần, từ 150 ki lô gam xuống còn 120 ki lô gam vào năm 2015 và 100 ki lô gam/người/năm vào năm 2030, nhưng nhu cầu về lúa vẫn lên tới 32,1 triệu tấn vào năm 2015 và 35,2 triệu tấn vào năm 2020. Khi đó, giả như diện tích lúa vẫn giữ được ở mức an toàn thì Việt Nam vẫn đảm bảo được ANLT, nhưng khả năng xuất khẩu gạo sẽ rất mỏng manh.

Nhưng mối “đe dọa” lớn, theo Bộ NN&PTNT, là dự kiến nhu cầu đất cho các mục đích phi nông nghiệp và nông nghiệp khác trong giai đoạn 2009- 2020 lên tới 0,7 triệu héc ta, trong đó đất để phát triển giao thông là 0,2 triệu héc ta, đất phát triển đô thị và đất ở nông thôn là 0,15 triệu héc ta... và sẽ có thêm ít nhất 0,27 triệu héc ta đất lúa bị “hy sinh”.

Biến đổi khí hậu trong những năm tới cũng sẽ khiến nhiều diện tích đất lúa ở ĐBSCL và ĐBSH bị ngập hoặc nhiễm mặn, không sản xuất được.

Do đó, theo ông Toàn, ngay từ bây giờ cần phải có quy hoạch vùng đất sản xuất lúa. “ANLT chỉ khả thi khi có quy hoạch sản xuất rõ ràng, quy mô canh tác lúa phải đạt diện tích nhất định và phải nghiêm minh trong giám sát thực hiện quy hoạch”, ông Toàn góp ý. Bởi ANLT đã là chuyện của toàn thế giới. Hiện tại, Hàn Quốc ngoài việc tăng cường sản xuất lương thực trong nước còn hợp tác chặt chẽ với các nước sản xuất lương thực lớn của thế giới để chuẩn bị nguồn cung. Philippines cũng đã cam kết đầu tư 1 tỉ đô la Mỹ để tăng sản lượng lương thực. Trung Quốc cũng đã ban hành các chính sách khuyến khích nông dân gia tăng sản lượng với các biện pháp hỗ trợ tài chính, hạ giá đầu vào nông nghiệp và tăng mức giá tối thiểu trong việc mua gạo và bột mì...

Giữ diện tích không bằng giữ thu nhập!

Nhằm đảm bảo ANLT, Bộ NN&PTNT tính toán, đến năm 2015 cần phải giữ cho được tối thiểu 3,8 triệu héc ta và năm 2030 là 3,5-3,6 triệu héc ta đất canh tác lúa, trong đó đất chuyên lúa nước là 3,2 triệu héc ta. Trước mắt, kiến nghị các bộ, ngành chức năng cần điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp, đô thị theo hướng chủ yếu lấy đất đồi và đất cát ven biển. Các tuyến đường bộ hoặc đường cao tốc cần thiết kế nền móng cho mục tiêu lâu dài để sử dụng cả chiều rộng lẫn chiều cao (làm đường nhiều tầng) nhằm hạn chế xâm lấn đất lúa. Đồng thời, nên tăng thuế suất chuyển đổi đất lúa sang các mục đích phi nông nghiệp cao hơn 2-4 lần so các loại đất khác...

Tuy vậy, theo một số nhà khoa học, quan trọng nhất là phải làm sao giúp người trồng lúa nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Đó mới là giải pháp hữu hiệu để đảm bảo diện tích lúa. “Trên thế giới ngày nay, lúa gạo được coi là mặt hàng chính trị hơn là mặt hàng kinh tế. Giá cả thường xuyên lệ thuộc vào chính sách ANLT của từng quốc gia nên ít nơi người sản xuất lúa gạo trở nên giàu có. Do đó, nếu đặt mục tiêu sản xuất lúa nhằm đảm bảo ANLT, Nhà nước cần có chính sách thích hợp cho người trồng lúa”, Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho biết.

Ông Toàn dẫn chứng, kết quả giám sát của đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ ở vụ đông xuân 2008- 2009 cho thấy, sau khi trừ chi phí sản xuất, nông dân thu lãi hơn 13 triệu đồng/héc ta lúa thường và từ 14-16 triệu đồng/héc ta lúa chất lượng cao. Tỷ lệ lợi nhuận vụ lúa ấy là khá cao so nhiều vụ trước, từ 40-45%. Nhưng theo ông Toàn, mức lợi nhuận ấy vẫn chưa đảm bảo cho nông dân có đời sống, sinh hoạt, học hành khá so mặt bằng chung của tình hình kinh tế hiện nay. Cụ thể, nếu một hộ có bốn nhân khẩu, canh tác 1 héc ta đất và sản xuất 2 vụ/năm, quy ra lợi nhuận cao nhất đạt từ 20-22 triệu đồng thì tính bình quân mỗi nhân khẩu chỉ đạt thu nhập trên 5 triệu đồng/năm! “Số tiền này nếu chia cho tất cả các khoản chi dùng thiết yếu nhất của một hộ gia đình thì rõ ràng là quá nhỏ”, ông Toàn nói.

Do đó, cần có hàng loạt chính sách đi kèm như công bố giá mua thóc tối thiểu, đầu tư thêm vào vùng nông thôn, củng cố hệ thống thu mua để giảm trung gian, đầu tư vào công nghệ và kho chứa để giảm thất thoát sau thu hoạch, khuyến khích tích tụ ruộng đất... giúp nông dân có thể làm giàu nhờ cây lúa. Nếu không, giả như diện tích lúa được giữ nhưng nông dân liệu có thiết tha với cây lúa?

Cụ thể, theo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, vừa qua nhiều nông dân đã bỏ ruộng, bỏ vụ không gieo trồng lúa. Năm 2005, có đến 6.400 hộ thuộc 100 xã của tỉnh Thái Bình bỏ ruộng, không cấy. Ở nhiều tỉnh miền Trung, nông dân cũng không gieo cấy lúa vụ mùa. Đó là minh chứng về hiệu quả trồng lúa thấp, khiến nông dân không có động lực.

Trong khi đó, chính Bộ NN&PTNT thừa nhận, giá trị thu nhập trên 1 héc ta đất lúa sau khi chuyển đổi sang mục đích khác đều cao hơn. Như nuôi trồng thủy sản tăng thu nhập từ 4-7 lần so với trồng lúa, một số mô hình chuyển sang trồng rau, hoa chất lượng cao ở Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bà Rịa - Vũng Tàu... cho thu nhập từ 300 - 700 triệu đồng/năm.

Nguồn: TBKTSG