
Tin tức
ODA và tham nhũng (12/06)
06/08/2010 - 22 Lượt xem
Điều chưa nói trong báo cáo
Ngân hàng Thế giới (WB) vừa đưa ra một đánh giá lạc quan về nền kinh tế Việt Nam trong một báo cáo chuẩn bị cho Hội nghị nhóm tư vấn các tổ chức viện trợ quốc tế và chính phủ vào đầu tuần này (Xem chi tiết trong bài “Kích cầu ở Việt Nam dưới góc nhìn của WB” bên dưới)… Tuy nhiên, những gì đáng lưu ý về báo cáo này là những điểm WB bỏ qua hơn là những điểm được đưa vào báo cáo.
WB tập trung vào vấn đề thâm hụt tài khóa và tìm nguồn tài trợ trong ngắn hạn là cách tiếp cận chính xác. Tuy nhiên, báo cáo lại hầu như không nói gì nhiều về các vấn đề chính sách tiền tệ, đặc biệt việc quản lý tỷ giá hối đoái.
Thông thường người ta nghĩ chính sách tiền tệ không có hiệu quả dưới cơ chế tỷ giá cố định. Lý giải cho suy nghĩ này không có gì khó hiểu. Nếu tỷ giá linh hoạt, lãi suất thấp sẽ dẫn đến việc đồng vốn chảy ra khỏi các tài sản nội địa cũng như việc phải giảm giá đồng tiền, nhằm kích thích xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Nhưng dưới một cơ chế tỷ giá cố định, lãi suất nội tệ có giảm cũng không ảnh hưởng đến giá trị danh nghĩa của đồng tiền.
Nhà xuất khẩu không được hỗ trợ gì và nhà nhập khẩu vẫn cứ nhập hàng. Nhưng người tiết kiệm, đối diện với lãi suất nội tệ thấp, sẽ chuyển sang đồng đô la hay mua tài sản như vàng, nhà đất. Ngân hàng trung ương phải mua nội tệ để bảo vệ tỷ giá, và do đó giảm lượng cung tiền. Còn nếu ngân hàng trung ương không can thiệp, kết quả là lạm phát.
Từ phân tích này, dễ hiểu tại sao chính sách nới lỏng tiền tệ đã gây ra bong bóng trên thị trường chứng khoán và áp lực lên tỷ giá. Nhà sản xuất nội địa cũng thấy ngày càng khó cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu giá rẻ tràn ngập. Nếu tăng trưởng tín dụng tiếp tục gia tăng, lạm phát sẽ bắt đầu tăng tốc. Người tiết kiệm sẽ quay lưng với tài sản bằng tiền đồng, lại tạo thêm áp lực lên tỷ giá.
![]() |
Tỷ giá liên ngân hàng từ ngày 1-7-2008 đến 31-5-2009 |
Nói điều này không có nghĩa không cần cắt giảm lãi suất danh nghĩa vào cuối năm ngoái hay đầu năm nay. Vấn đề là cần cắt giảm bao nhiêu, và nền kinh tế nên chấp nhận mức độ tăng trưởng tín dụng nhanh đến mức nào. Chỉ số quan trọng cần theo dõi là lãi suất thật hay lãi suất thị trường trừ lạm phát. Bởi tỷ lệ lạm phát đã giảm vào năm nay, ngân hàng vẫn còn nhiều dư địa để giảm lãi suất danh nghĩa mà vẫn duy trì được lãi suất thực dương. Họ không cần hỗ trợ lãi suất để đạt được điều này.
Giảm lãi suất danh nghĩa cũng tạo điều kiện cho người vay tái tài trợ các khoản vay cũ bằng các khoản vay mới, rẻ hơn. WB lập luận rằng doanh nghiệp ở Việt Nam có thể tái tài trợ các khoản vay trong năm nay nhờ chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Tuy nhiên, một phần lớn việc tái tài trợ này dù sao cũng đã diễn ra - mà không làm thâm hụt ngân sách tăng lên - khi ngân hàng giảm lãi suất danh nghĩa.
Một số nhà kinh tế cho rằng Việt Nam có thể giải quyết các vấn đề này thông qua tỷ giá linh hoạt hay chuyển sang cơ chế tỷ giá hoàn toàn thả nổi. Tuy nhiên, điều này là không khả thi trong ngắn hạn hay ngay cả trong trung hạn.
Quản lý một cơ chế tỷ giá linh hoạt đòi hỏi thị trường tín dụng chín muồi và các thể chế tài chính phát triển mạnh, bao gồm một ngân hàng trung ương tương đối độc lập có trong tay nhiều công cụ chính sách. Khi thiếu vắng những điều kiện này, một tỷ giá thả nổi sẽ dao động quá nhiều. Thương mại và đầu tư sẽ bị ảnh hưởng.
Một giải pháp tốt hơn là cho phép tiền đồng giảm giá dần dần so với đồng tiền của các đối tác thương mại chính, sau đó ấn định tỷ giá ở mức kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng giá rẻ mà không gây ra lạm phát quá cao.
Vào cuối năm 2008, tỷ giá thật - là tỷ giá sau khi điều chỉnh sai biệt lạm phát giữa nội địa và nước ngoài - là cao hơn khoảng 33% so với mức ghi nhận được vào tháng 1-2004. Nhà xuất khẩu Việt Nam chịu thiệt thòi và hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn khá nhiều. Cách điều chỉnh dần dần là tốt nhất nhưng cơ quan quản lý tiền tệ phải sẵn sàng can thiệp nếu giới đầu cơ đặt cược mạnh vào mức tỷ giá cố định.
Ngân hàng Nhà nước từng giảm tỷ giá danh nghĩa trong năm qua. Tỷ giá tiền đồng - đô la Mỹ giảm khoảng 7% tính từ tháng 10-2008 đến tháng 5-2009. Nhưng lạm phát vẫn cao hơn ở Việt Nam so với ở Mỹ, điều này có nghĩa tỷ giá thật không thay đổi nhiều.
Trong lúc đó, đồng won của Hàn Quốc mất giá 18% so với đô la Mỹ trong năm rồi và đồng rupiah của Indonesia giảm giá chừng 11%.
Chất lượng đầu tư
Một vấn đề khác cần quan tâm là mức độ và chất lượng đầu tư trong nước. Nhìn từ góc cạnh cầu của nền kinh tế, mức tăng trưởng nhanh của Việt Nam trong nhiều năm qua ngày càng mang tính “do đầu tư” hơn là “hướng về xuất khẩu”. Mặc dù giá trị xuất khẩu tăng nhanh sau năm 2005, nhập khẩu tăng còn nhanh hơn. Cho nên thương mại ròng lại tác động lên cầu nội địa.
Dễ hiểu tại sao chính sách nới lỏng tiền tệ đã gây ra bong bóng trên thị trường chứng khoán và áp lực lên tỷ giá.Nếu đầu tư là không hiệu quả hay tài trợ chủ yếu nhờ vốn vay, tăng trưởng do đầu tư có thể dẫn đến lạm phát tài sản, giá cả và sự bất ổn tài chính. |
Trong cùng thời kỳ, khoảng cách giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư lại tăng nhanh. Tiết kiệm nội địa vẫn ổn định nhưng đầu tư tăng bình quân hơn 15% mỗi năm. Tăng trưởng “do đầu tư” là mạnh nhất vào năm 2007, dẫn đến các bong bóng bất động sản và chứng khoán và lạm phát năm 2008. Quá nhiều dự án đầu tư đuổi theo quá ít cơ hội đầu tư tốt.
Tăng trưởng do đầu tư không nhất thiết là điều xấu. Nếu quyết định đầu tư là tốt và tài chính có đủ, tỷ lệ đầu tư cao ngày nay có nghĩa thu nhập sẽ cao hơn trong tương lai. Nhưng nếu đầu tư là không hiệu quả hay tài trợ chủ yếu nhờ vốn vay, tăng trưởng do đầu tư có thể dẫn đến lạm phát tài sản, giá cả và sự bất ổn tài chính.Năm nay nhập siêu giảm dần, có nghĩa sẽ ít có “mức rò rỉ” cầu từ ngoại thương. Cùng lúc, tiêu dùng chính phủ gia tăng cũng bơm một lượng cầu lớn vào hệ thống. Nếu đầu tư và tiết kiệm không được đưa về mức cân bằng, nền kinh tế Việt Nam có thể sốt nóng ngay cả ở mức tăng trưởng thấp.
Việc cân đối này phần nào sẽ được tự động điều chỉnh do đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút. Chính phủ phải chú ý bảo đảm không để tăng trưởng tín dụng đi quá nhanh trước tăng trưởng kinh tế, và đầu tư công phải tập trung vào các dự án có hiệu quả và có nguồn tài chính lành mạnh.
Nói cho công bằng, WB cũng khuyến nghị chính phủ “củng cố quy trình đầu tư công, giải quyết những yếu kém bộc lộ trong giai đoạn tăng trưởng nóng”. Đây là một khuyến nghị hơi rụt rè, đưa vào một ô trên trang cuối của báo cáo.
Các nhà tài trợ cho Việt Nam sẽ giúp ích thật sự cho đất nước này nếu họ chú ý nhiều hơn nữa vào chất lượng và tính hiệu quả của đầu tư công vào hạ tầng và các doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam sẽ tiếp tục trải qua các chu kỳ tăng trưởng nóng rồi vỡ bong bóng về mặt vĩ mô chừng nào các quyết định [đầu tư] này chưa minh bạch và chưa mang tính giải trình.
__________________________________
Kích cầu ở Việt Nam dưới góc nhìn của WB
Trong báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam mang tên “Điểm lại” do Ngân hàng Thế giới (WB) biên soạn nhằm phục vụ cho Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam tổ chức vào đầu tuần này tại Buôn Ma Thuột, số liệu chỉ được cập nhật đến hết quí 1-2009. Vì thế trong bài này, chúng tôi tập trung nhiều hơn vào các dự báo và khuyến nghị chính sách cho thời gian tới của báo cáo.
Sau khi đánh giá cao những phản ứng nhanh lẹ của Chính phủ trước hai cú sốc kinh tế: tình trạng phát triển quá nóng cuối năm 2007, đầu năm 2008 và sự suy giảm kinh tế sáu tháng cuối năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, báo cáo đã nêu lên những thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu trong năm 2009 này.
Đầu tiên là tình trạng thất nghiệp mà theo báo cáo “có thể không cao tới mức như nhiều người lo ngại nhưng thực tế mất việc làm đã trở nên phổ biến đối với lao động phổ thông và mang tính thời vụ, trong khi nhiều người lao động tuy có việc làm nhưng thu nhập giảm và không có thu nhập thêm ngoài giờ”.
Báo cáo cho rằng: “Cắt giảm việc làm là tình trạng phổ biến ở các khu công nghiệp giai đoạn cuối năm 2008, đầu năm 2009, song ít khi diễn ra dưới hình thức cho nghỉ việc công khai. Phổ biến hơn là không ký lại hợp đồng và khuyến khích tự nghỉ việc. Lao động thời vụ và lao động có hợp đồng ngắn hạn bị mất việc nhiều hơn.
Nhiều doanh nghiệp ở các khu công nghiệp đã lưu ý những khó khăn trong việc tuân thủ chính sách bảo hiểm xã hội và hệ thống bảo hiểm thất nghiệp mới được áp dụng. Kể cả tại những doanh nghiệp được ghi nhận là đã phục hồi sản xuất, công nhân cũng thường chỉ được tính giờ làm việc bình thường và làm ca, không có làm thêm giờ.
Không có lương làm ngoài giờ khiến công nhân phải cắt giảm chi tiêu, đặc biệt ở TPHCM và các vùng lân cận, do chi phí sinh hoạt cao. Cũng vì lý do này mà tiền gửi về quê cho gia đình cũng bị ảnh hưởng”.
Về cán cân thanh toán, báo cáo nhận định “Kinh tế phục hồi cũng là thời điểm gây áp lực lên cán cân thương mại trong những tháng còn lại của năm khi nhập khẩu ước sẽ gia tăng”. Các tác giả sau khi đưa ra những kịch bản dự báo cho tình hình xuất nhập khẩu, kiều hối và giải ngân FDI đã viết: “Những thông tin về kiều hối, luồng vốn FDI và các biến động về nguồn gốc quốc tế khác không đầy đủ nên rất khó đưa ra được một dự báo đáng tin cậy về cán cân thanh toán.
Tuy nhiên, dựa trên những thông tin đã có, mức thâm hụt tài khoản vãng lai vào khoảng 5% GDP không phải là không có cơ sở. Về tài khoản vốn, bên cạnh dự báo sụt giảm luồng vốn FDI cũng cần nhắc tới dự báo về việc luồng vốn ồ ạt chảy ra cho cả năm. Phần lớn, nếu không phải tất cả luồng vốn chảy ra này đã diễn ra vào đầu năm 2009, khi các nhà đầu tư nước ngoài bán trái phiếu chính phủ và cố gắng chuyển thành tiền các cổ phiếu của họ trên thị trường chứng khoán.
Với quy mô thị trường tài chính “mỏng manh” của Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài cuối cùng đã bán tài sản của họ với giá thấp hơn giá mà họ mua vào ban đầu”. Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, báo cáo nhận xét: “Do chính sách hỗ trợ lãi xuất giai đoạn 1 chủ yếu đi kèm với việc tái cơ cấu nợ nên tổng tín dụng không tăng trưởng nhiều trong quí 1-2009. Các khoản vay theo chính sách này lên đến gần 200.000 tỉ đồng tính đến cuối tháng 3-2009, song tổng nợ xấu của ngân hàng chỉ tăng 6% kể từ cuối năm 2008”.
Báo cáo cho rằng tháng 4-2009, chương trình hỗ trợ lãi suất mở rộng đối tượng vay từ vốn lưu động sang vốn đầu tư và thời hạn dài hơn, từ chín tháng tăng lên hai năm. Tính hợp lý của chương trình hỗ trợ lãi suất giai đoạn 2 này làm nhiều người băn khoăn hơn. Tín dụng ngân hàng đến lúc đó vẫn luân chuyển tốt.
Điều quan trọng hơn là hỗ trợ lãi suất có nhiều điểm giống như chức năng “cho vay chính sách” vốn đã bị các ngân hàng thương mại hủy bỏ và chuyển sang những ngân hàng chuyên biệt cách đây vài năm, như một phần trong nỗ lực cải cách ngành tài chính ngân hàng.
Cho vay chính sách rất dễ bị thiên vị, có thể làm cho việc phân bổ nguồn lực thiếu hiệu quả và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng. Vì thế, báo cáo kết luận: “Cơ chế hỗ trợ lãi xuất vay vốn tín dụng dù đã có tác dụng thiết thực trong giai đoạn đầu của chính sách kích cầu nhưng giờ đây cũng gây nhiều quan ngại khi cơ chế này có thể làm nảy sinh tình trạng thiếu hiệu quả cho vay chính sách trong điều kiện lưu chuyển tín dụng của hệ thống ngân hàng đã được khai thông trở lại”.
Việc nới lỏng chính sách tiền tệ và chính sách hỗ trợ lãi suất giai đoạn 2 cho đến nay đã làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh. Các tác giả dự báo, “Vì tổng phương tiện thanh toán lại tăng trở lại, và giá cả hàng hóa hầu như cũng đã chạm đáy, nên lạm phát sẽ có thể tăng trở lại vào sáu tháng cuối năm 2009”.
Phần có nhiều thông tin nhất của báo cáo tập trung vào chính sách kích cầu của Việt Nam với quy mô hàng đầu so với các nước trong khu vực.
“Do 143.000 tỉ đồng lên đến gần 8,7% GDP dự kiến đạt được trong năm 2009, kế hoạch của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã làm cho nhiều người băn khoăn. Cộng thêm 8,7% GDP này vào với mức thâm hụt ngân sách tổng thể 8,3% đồng nghĩa với việc kế hoạch ngân sách đã phê duyệt trong năm 2008 sẽ bị thâm hụt 17% GDP.
Nếu điều này xảy ra, gói kích cầu của Việt Nam sẽ khác hẳn so với các quốc gia khác trong khu vực. Do vậy cần phải làm rõ những nội dung nào đã được phê chuẩn, những gì còn đang được các bộ, ngành và Quốc hội cân nhắc, và hàm ý về nhu cầu tài chính của các quyết sách sẽ được đưa ra trong vài tuần tới là gì”.
Báo cáo nhấn mạnh một số điểm cần lưu ý về gói kích cầu này: “Thứ nhất, “kế hoạch 143.000 tỉ đồng” có nhiều nội dung trùng lắp. Một số mục được liệt kê cả trong gói kích cầu đợt 1; một số biện pháp khác xuất hiện cả trong kế hoạch ngân sách đã được phê duyệt vào cuối năm 2008. Thứ hai, “kế hoạch 143.000 tỉ đồng” đã trộn lẫn các biện pháp làm giảm số thu thuế với các biện pháp nhằm huy động thêm nguồn lực.
Mặc dù tính hai nhóm biện pháp đầu vào thâm hụt ngân sách là hợp lý, song nhóm biện pháp thứ ba lại là một mục cấp tài chính chứ không phải là nguyên nhân gây tăng thâm hụt. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là một số biện pháp đưa vào trong kế hoạch 143.000 tỉ đồng chắc chắn sẽ gây tổn thất cho xã hội, song việc chi phí đó rơi vào ngân sách lại hoàn toàn không rõ ràng”.
Vì thế, báo cáo cho rằng: “Gói kích cầu 143.000 tỉ đồng hiện đang được xin ý kiến Quốc hội có thể đẩy thâm hụt ngân sách tới mức không đủ đáp ứng về nguồn vốn trong bối cảnh hiện nay”.Vấn đề thực sự cần giải quyết tại thời điểm này là: gói kích cầu bao nhiêu là đủ, và làm thế nào để có nguồn lực cho nó. Đây không phải là chuyện nhỏ.
Vào thời điểm đã có những dấu hiệu phục hồi rõ rệt, và giai đoạn lạm phát thấp và thị trường tiền tệ suy thoái sắp chấm dứt, thì một mức thâm hụt ngân sách quá lớn là không thể biện hộ được. Khi thị trường còn chưa có gì chắc chắn, một gói kích cầu thiếu nguồn tài chính đầy đủ có thể mang lại kết quả ngược với mong đợi. Vì tất cả những lý do đó, các biện pháp được đề xuất trong “kế hoạch 143.000 tỉ đồng” vẫn đang chờ phê duyệt cần phải được cân nhắc một cách thận trọng, các tác giả khuyến cáo.
Thâm hụt tài khoản vãng lai lớn | |
(Tính bằng triệu đô la Mỹ) |
Ước 2009 |
Cân đối tài khoản vãng lai |
-4,622 |
Cán cân thương mại |
-5,552 |
Dịch vụ ròng |
-595 |
Thu nhập đầu tư |
-3,275 |
Chuyển khoản và kiều hối |
4,800 |
Cán cân tài khoản vốn |
1,950 |
Đầu tư FDI (luồng vào) |
4,500 |
Vay trung hạn và dài hạn |
1,450 |
Các nguồn vốn khác |
-4,000 |
Cán cân chung |
-2,672 |
Thay đổi dự trữ (-tăng) |
2,672 |
Tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm GDP |
-5.0 |
Nguồn: Ngân hàng Thế giới ước tính Lưu ý: Trong cán cân thương mại giá trị xuất khẩu và nhập khẩu đều tính theo giá F.O.B |
----------------------------------------------------------------------------------------------------
- WB không đề cập đến chính sách tiền tệ cũng có lý của nó, đấy là việc của IMF. Vì đây là báo cáo cho các nhà tài trợ nên phải tập trung vào chính sách tài khóa và tình hình ngân sách.
- "Nhà xuất khẩu không được hỗ trợ gì và nhà nhập khẩu vẫn cứ nhập hàng". Điều này không hẳn chính xác, nhất là trong trường hợp của Việt Nam. Khi tỷ giá danh nghĩa cố định, chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ làm lạm phát nội địa tăng tương đối so với lạm phát ở nước ngoài và tỷ giá thật sẽ tăng, do vậy sẽ có lợi cho nhập khẩu và hại cho xuất khẩu. Thực ra ông Pincus có đề cập đến điều này trong đoạn nói về tỷ giá thật.
- Giá vàng của Việt Nam hiện đã theo khá sát giá vàng thế giới nên khó có thể nói giá vàng trong nước tăng là do người tiết kiệm chuyển tài sản sang vàng. Giá bất động sản vẫn chưa có chuyển biến mạnh, không rõ mức độ dịch chuyển tài sản vào thị trường này thế nào nhưng có lẽ không nhiều như ông Pincus lập luận.
- "Ngân hàng trung ương phải mua nội tệ để bảo vệ tỷ giá, và do đó giảm lượng cung tiền". Với cơ chế quản lý tỷ giá bằng mệnh lệnh hành chính như hiện nay, NHNN không nhất thiết phải can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ tỷ giá cố định. Áp lực trong thị trường ngoại hối chứng minh điều này.
- Kết luận về bong bóng thị trường chứng khoán của ông Pincus rất quan trọng, nhưng cũng cần phải có một số điều kiện. Thứ nhất, chỉ số VN-Index tăng cùng với các chỉ số khác trên thế giới, nên có thể một phần do việc tránh rủi ro của nhà đầu tư Việt Nam và nước ngoài giảm. Thứ hai, vì VN-Index đã giảm quá nhiều nên giá trị chứng khoán ở Việt Nam đã quá rẻ, giai đoạn phục hồi vừa rồi có thể chỉ là quay về với các yếu tố cơ bản chứ chưa hẳn là bong bóng vì lãi suất thấp.
- Pincus nhận định đúng là Việt Nam có tình hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, nhưng có lẽ một phần khá lớn đầu tư tập trung vào khu vực xuất khẩu. Cho nên mặc dù đóng góp xuất khẩu ròng vào tăng trưởng là âm thì đó chỉ là đóng góp trực tiếp, đóng góp gián tiếp sẽ bao gồm cả phần đầu tư vào khu vực xuất khẩu. Do vậy nếu trong thời gian tới thương mại quốc tế suy giảm thì xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm và đầu tư vào khu vực xuất khẩu sẽ giảm theo.
Nguồn: TBKTSG
