
Tin mới
Sử dụng nguồn vốn ODA của WB: Hệ lụy vì chậm (24/06)
06/08/2010 - 28 Lượt xem
Kế hoạch mở rộng tài trợ của WB là một tín hiệu tốt cho Việt Nam. Tuy nhiên, bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đang băn khoăn về tính khả thi của kế hoạch này khi 10 trong số 42 dự án sử dụng nguồn vốn ODA của WB tại Việt Nam đang trong danh sách cảnh báo đỏ vì chậm trễ, khoảng 15 dự án khác cũng liệt vào diện chậm. Nhiều dự án trong số này rất có thể sẽ không thể triển khai tiếp được do hết thời gian theo ký kết.
Vấn đề không chỉ ở chỗ các chuyên gia WB tại Việt Nam khó giải trình với trụ sở chính về hiệu quả của kế hoạch mới khi mà vốn cam kết cũ vẫn chưa tiêu được, điều quan trọng là sự chậm trễ trong giải ngân các dự án tới đây, nếu được chấp nhận, sẽ gây tổn phí lớn cho chính Việt Nam.
Những nguyên nhân chậm trễ cũ làm khó cho việc thu hút thêm các nguồn lực mới |
Lý do là nguồn tài trợ cho Việt Nam tập trung hướng vào cơ sở hạ tầng theo hình thức vay có lãi suất ưu đãi thấp nhất cho các quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình (IBRD). Đây là cơ hội tốt cho các kế hoạch đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng vì nguồn vốn IBRD dành cho các dự án khu vực công nhưng vẫn do khu vực tư nhân thực hiện thay vì chỉ tập trung nguồn tài chính hỗ trợ không lãi suất của WB từ Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) dành cho các nước có thu nhập thấp để phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Song, cũng phải nói rằng, khác với nguồn vốn ưu đãi IDA, mức lãi suất, dù thấp, vẫn sẽ được tính từ thời điểm hiệp định vay vốn được ký kết. Rõ ràng, sự chậm trễ trong giải ngân dự án sẽ đẩy phần lãi suất mà Việt Nam phải gánh tăng lên. Đó là chưa kể những hệ lụy đi kèm, thường là không nhỏ, trong phát triển kinh tế xã hội do các dự án chậm đưa vào khai thác so với kế hoạch. Trong những trường hợp này, tính ưu đãi của hình thức IBRD sẽ không đạt như mong muốn của các nhà thiết kế cũng như Chính phủ Việt Nam khi vay vốn.
Nguyên do của những chậm trễ, đáng nói là không mới. Đó là sự phức tạp do quá nhiều cơ quan tham gia một dự án; đó là sự lạc hậu của các định mức chi phí mà đáng ra các dự án này không cần phải tuân thủ; đó là sự chậm trễ trong giải phóng mặt bằng do thiếu vốn đối ứng; những phối hợp kém giữa các cấp có thẩm quyền và các ngân hàng. Đây là những nguyên nhân khiến dự án như An toàn đường bộ, Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông khu vực Đồng bằng sông Mekong, Giao thông đô thị Hà Nội, Phát triển thông tin, Môi trường và vệ sinh rác thải TP.HCM… sử đụng vốn của WB bị kéo dài, không hiệu quả. Nhiều dự án trong số này mới giải ngân được khoảng 1 - 2% trong khi số thời gian dự án đã đi qua quá nửa.
Trong số các nguyên nhân chậm trễ, có nhiều dự án liệt kê tới yếu tố trượt giá. Nhiều dự án đã đề nghị mức chi phí phụ trội do lạm phát của năm trước ngang cả tổng giá trị dự án. Đơn cử như dự án Cung cấp nước sạch và rác thải khu vực Đồng bằng sông Hồng có nguồn IDA hỗ trợ là 45,9 triệu USD song lại đang đề nghị mức chi phí phụ trội để hoàn thành dự án là 50 - 65 triệu USD.
Đã có lời bàn rằng, nếu các dự án này được triển khai đúng tiến độ thì phần phụ trội do trượt giá chắc chắn sẽ không lên tới mức như vậy. Phần lớn các dự án thuộc diện cảnh báo của WB đều có thời gian bắt đầu vào khoảng năm 2004 - 2005. Như vậy, với các tỷ lệ giải ngân trung bình chỉ khoảng 22% trong khoảng 4 năm (mức thời gian trung bình của 1 dự án khoảng 5 năm), sự chậm trễ quá mức đã đẩy toàn bộ các dự án này rơi vào vòng xoáy của lạm phát. Dự án có mức chi phí phụ trội hơn cả trị giá dự án trên đang được xác định thời hạn bàn bạc tới tháng 7/2009…
Cũng phải nói rằng, không đơn giản để Việt Nam có mặt trong danh sách các quốc gia được sử dụng hình thức IBRD. Chính những thành công trong thực hiện hiệu quả nguồn hỗ trợ IDA trong xoá đói, giảm nghèo, các nỗ lực cải thiện tốc độ giải ngân nguồn vốn IDA trong những năm qua đã tạo cơ sở để Việt Nam sớm bước vào danh sách các quốc gia có thu nhập trung bình của IBRD ngay từ năm 2007, khi điều kiện về mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chưa đạt 1.000 USD theo tính toán của WB.
Hiện tại, mức độ giải ngân các dự án ODA sử dụng nguồn vốn WB của Việt Nam vào khoảng 12%, so với mức trung bình là 22%. Những nguyên nhân chậm trễ cũ đang làm khó cho cả giai đoạn phấn đấu của Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tài trợ, thu hút thêm các nguồn lực mới cho các kế hoạch phát triển mạnh mẽ tới.
Nguồn: DDDN
