Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Tìm cơ hội phát triển sau khủng hoảng (24/07)

06/08/2010 - 31 Lượt xem

Phục hồi chưa thật sự bền vững  

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam, cho biết Việt Nam là một trong 13 nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế dương trên thế giới, với mức tăng 3,9% trong sáu tháng đầu năm 2009. Nhưng tỷ lệ này là thấp so với tiềm năng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 9 - 10%. “Như vậy, suy thoái kinh tế thế giới đã làm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm 5 - 6% và mức ảnh hưởng này cũng không khác gì các nước khác”, ông nói.

Cụ thể hơn, ông Tự Anh phân tích tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam trong sáu tháng đầu năm đã suy giảm nghiêm trọng, chỉ tăng 1,25% so với mức tăng 11% của cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, thâm hụt thương mại của Việt Nam chiếm 5% trên GDP, giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là nhờ vào tốc độ suy giảm mạnh của nhập khẩu so với xuất khẩu. “Tuy nhiên, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu và việc giảm mạnh giá trị nhập khẩu trong sáu tháng đầu năm cho thấy năng lực sản xuất và điều kiện sản xuất của doanh nghiệp đang bị suy giảm”, ông nói.

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh cho rằng gói kích thích kinh tế Chính phủ đưa ra từ đầu năm với mục tiêu là kích cầu đầu tư và tiêu dùng giúp duy trì tốc độ tăng trưởng GDP và hạn chế suy giảm kinh tế.

Thế nhưng, dựa trên các con số do Tổng cục Thống kê đưa ra trong sáu tháng đầu năm, tiêu dùng giảm 3,5%, đầu tư của Chính phủ tăng 6,5%, xuất khẩu thuần giảm 86%. Theo tính toán của ông Tự Anh, đầu tư tư nhân (chiếm tỷ trọng 41,5% trong cơ cấu GDP Việt Nam) giảm 14% trong sáu tháng đầu năm. Như vậy, chính sách kích cầu của Chính phủ mà đặc biệt là gói hỗ trợ lãi suất 4% đã không có hiệu quả như mong muốn, vì cả tiêu dùng lẫn đầu tư tư nhân đều giảm trong sáu tháng đầu năm.

Trong khi đó, thị trường bất động sản đã ấm dần lên và thị trường chứng khoán nóng lên trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6. Còn thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong năm 2009, theo dự đoán của Ngân hàng Phát triển châu Á và Quỹ tiền tệ quốc tế, vào khoảng 9%, quá lớn so với mức 3% của Thái Lan, Malaysia, và Trung Quốc (có thặng dư ngân sách).

“Sự phục hồi của nền kinh tế Việt Nam là chưa bền vững và hoàn toàn có thể đảo ngược nếu tình hình kinh tế thế giới xấu đi”, ông Tự Anh nói.

Đặt lại vấn đề tái cấu trúc  

Nền kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu bước đầu của sự hồi phục sau khủng hoảng. Và vấn đề lớn của Việt Nam trong thời gian trước mắt được các diễn giả đặt ra là tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao nội lực của các doanh nghiệp trong nước.

Bà Phạm Chi Lan, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển (IDS), cho rằng Việt Nam đã bước vào thời kỳ phát triển mới, dựa chủ yếu vào nội lực, kết hợp với sử dụng hiệu quả ngoại lực. Việt Nam cần tìm kiếm và phát triển mô hình tăng trưởng mới với hai cốt lõi: chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động, giá trị gia tăng cao trong chuỗi liên kết toàn cầu; và cơ chế phân bổ nguồn lực mang tính thị trường, chống độc quyền và những đặc quyền.

Bà Lan cho rằng để thúc đẩy phát triển các lực lượng doanh nghiệp, Chính phủ cần cải cách mạnh các doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nước, đặt các doanh nghiệp này vào môi trường cạnh tranh thực sự, xây dựng hệ thống quản lý và giám sát hiệu quả, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển mạnh khu vực tư nhân trong nước; thu hút mạnh vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài nhưng trên cơ sở phát huy vai trò doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong đổi mới công nghệ, chuyển đổi nâng cấp các ngành, sản phẩm, liên kết với doanh nghiệp trong nước.

Tương tự như ý bà Lan, ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương mại cho biết khủng hoảng đặt ra yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế. Hiện Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đề án gồm bốn nội dung lớn: tái cấu trúc cơ cấu kinh tế, tái cấu trúc doanh nghiệp, tái cấu trúc các ngành sản xuất và điều chỉnh chiến lược phát triển thị trường.

Ông Tuyển cho rằng Nhà nước cần tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước và khối doanh nghiệp tư nhân. Cơ chế thu hút đầu tư nước ngoài phải hướng vào các sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, không chấp nhận những dự án công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường như đã từng xảy ra. Việt Nam vẫn cần coi trọng xuất khẩu nhưng phải chú trọng hơn đến thị trường nội địa trong thời gian tới, ông Tuyển nhấn mạnh.

Nguồn: TBKTSG