Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

Chuyển kích cầu sang kích thích kinh tế (03/09)

06/08/2010 - 28 Lượt xem

Cần gói kích thích kinh tế

"Ngay cả khi đã chặn được suy giảm kinh tế thì vẫn cần có một gói kích cầu, liều lượng nhỏ hơn nhưng rất cần"

TS ĐINH TRỌNG THỊNH

Theo PGS.TS Trần Hoàng Ngân (Đại học Kinh tế TP.HCM), một số nước trên thế giới đang chuẩn bị gói kích thích kinh tế thứ hai, thậm chí như Thái Lan đã triển khai. VN đang triển khai gói kích cầu với chương trình hỗ trợ 4% lãi suất vay vốn ngắn hạn sẽ kết thúc vào 31-12-2009.

Nhờ gói kích cầu mà nền kinh tế đã ra khỏi suy giảm, có tăng trưởng. Tuy nhiên kinh tế thế giới vẫn còn khó khăn. Vì vậy chúng ta cũng cần có một chương trình hỗ trợ nền kinh tế, không phải kích cầu mà là kích thích (thường được gọi là gói kích cầu thứ hai) để nền kinh tế có được những bước tăng trưởng vững chắc trong năm 2010 và các năm sau.

Có sự khác nhau giữa kích cầu và kích thích kinh tế. Cuối năm 2008 do khủng hoảng tài chính thế giới làm suy giảm đầu tư và sức mua nên phải có gói kích cầu tiêu dùng và đầu tư. Còn hiện nay, kinh tế đã phục hồi nhưng để đạt được mức tăng trưởng GDP từ 5% lên 6,5% trong năm 2010 cần phải có những biện pháp mạnh hơn, đó chính là gói kích thích kinh tế.

"Để không đột ngột, chính sách tiền tệ phải thiết kế các gói, có thể gọi là gói kích cầu hai, nhưng không nên hiểu là rải tiền ra với mức độ và thời gian như trước"

TS CAO SỸ KIÊM

Cũng theo ông Ngân, gói kích thích kinh tế không chỉ có vật chất như hỗ trợ lãi suất; giãn và giảm thuế mà còn phải tập trung vào một số lĩnh vực như cải cách hành chính, cải thiện hạ tầng... để giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Để đạt được mục tiêu kích thích kinh tế, cần nhắm tới những đối tượng cụ thể. Đó là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp và hộ hoạt động ở khu vực nông thôn - nông nghiệp, doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu.

Cần tiếp tục giãn, miễn thuế thu nhập để doanh nghiệp có thêm nguồn vốn, không chỉ tăng năng lực tài chính mà còn có thể mở rộng đầu tư. Cũng có thể tiếp tục hỗ trợ lãi suất, mức hỗ trợ ít đi so với hiện nay cho một số đối tượng.

Đặc biệt, cần có chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ lãi suất mức tối đa cho những doanh nghiệp làm tốt chương trình người Việt dùng hàng Việt. Khi kinh tế thế giới còn khó khăn, xuất khẩu của VN chưa tăng trưởng cao như các năm trước thì việc phát triển thị trường nội địa sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.

Lãi suất theo hướng nào?

Hiện nay, với lãi suất cơ bản là 7%, trần lãi suất cho vay là 10,5%/năm, các doanh nghiệp được hỗ trợ 4% lãi suất theo chương trình của Chính phủ chỉ phải trả 6,5%. Nhưng tới đây, khi không còn được bù lãi suất, doanh nghiệp phải trả đến 10,5%/năm. Mức này được xem là khá cao trong bối cảnh doanh nghiệp muốn tiết giảm chi phí để giảm giá thành qua đó tăng sức mua.

Theo ông Nguyễn Ngọc Anh - chủ tịch HĐQT Công ty CP đầu tư thương mại SMC, việc có gói kích thích kinh tế hay không cũng cần phải công bố sớm trước hai tháng khi gói hỗ trợ lãi suất 4% kết thúc để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị. Lý do là doanh nghiệp còn phải thu xếp nguồn vốn, kể cả tính toán lượng hàng hóa tồn kho, hàng luân chuyển cho phù hợp.

Theo ông Anh, với một số doanh nghiệp không được hỗ trợ lãi suất thì kiến nghị bỏ hỗ trợ để công bằng. Nhưng thực tế chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua là rất tốt, tạo tiềm lực cho doanh nghiệp được phát huy và nâng được lợi thế cạnh tranh.

Vì thế, theo TS Nguyễn Đức Hưởng - tổng giám đốc Ngân hàng Liên Việt, nên tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất cơ bản, là lãi suất tham chiếu tin cậy cho thị trường. Muốn vậy, lãi suất cơ bản phải đóng vai trò định hướng điều hành kinh tế vĩ mô và bám sát diễn biến thị trường, phản ánh được cung cầu vốn thực tế. Việc thực hiện lãi suất cơ bản cũng đồng nghĩa với việc sẽ có trần lãi suất cho vay.

Thế nhưng cũng có quan điểm khác về lãi suất cơ bản. Ông Phạm Hoàng Hà, giám đốc ban dự án Công ty CP Tập đoàn Phú Thái, cho rằng nên để ngân hàng được mặc cả lãi suất với doanh nghiệp, có thể vượt trần lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước. Doanh nghiệp nào tốt có thể ưu đãi lãi suất thấp, doanh nghiệp hoạt động kém hơn chịu lãi suất cao hơn, đồng thời có những biện pháp quản lý giám sát chặt chẽ. Khi thấy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả rồi thì nên có cơ chế bơm vốn kịp thời và linh hoạt, giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội kinh doanh thời kỳ hậu khủng hoảng.

Theo ông Hà, hầu hết doanh nghiệp phải vay vốn ngân hàng nhưng thực tế cũng có một số doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn vay, có nguyên nhân ngân hàng chưa mặn mà tìm hiểu kỹ lưỡng dù doanh nghiệp có tiềm năng.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng lãi suất theo thị trường là cần thiết nhưng trong bối cảnh hiện nay cần có định hướng về lãi suất. Nếu để thả nổi lãi suất sẽ đẩy chi phí của doanh nghiệp lên cao. PGS.TS Trần Hoàng Ngân cho rằng lạm phát trong những tháng đầu năm ở mức thấp thì việc duy trì lãi suất cơ bản 7%/năm là hợp lý.

Nguồn: Tuổi Trẻ