
Tin tức
Bên muốn tăng lượng, bên muốn giữ giá (08/09)
06/08/2010 - 24 Lượt xem
Thống kê từ Vụ Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết tổng kim ngạch xuất khẩu tám tháng ước đạt 37,3 tỉ đô, giảm 14,2% so với cùng kỳ năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu bị suy giảm, chủ yếu do việc bị giảm giá, bất chấp khối lượng hàng xuất khẩu vẫn tăng mạnh.
Chẳng hạn như trong nhóm hàng nông sản, điều giảm giá 19%, cà phê giảm 29%, hạt tiêu giảm 34%, gạo giảm 29%. Riêng kim ngạch nhóm hàng này bị giảm 2,25 tỉ đô la Mỹ do giá giảm, trong khi lượng hàng xuất khẩu tăng 1,44 tỉ đô la, vẫn chưa thể bù đắp được.
Tương tự, nhóm nguyên liệu, khoáng sản “mất” 5,24 tỉ đô la do giá giảm so với cùng kỳ năm 2008, dù lượng có tăng thêm 986 triệu đô la.
Về thị trường xuất khẩu, số liệu thống kê bảy tháng mới cập nhật được cho thấy các thị trường xuất khẩu trọng điểm đều bị thu hẹp đáng kể. Như thị trường Nhật Bản giảm tới 34,8% so với cùng kỳ năm 2008, thị trường Trung Quốc giảm 9,8%, thị trường ASEAN giảm 21,7%, Mỹ giảm 5,8%, Canada giảm 5,8% hay thị trường Anh giảm 20,4%. Chỉ có một thị trường duy nhất tăng đột biến 271,4% so với cùng kỳ là Nam Phi nhưng kim ngạch rất nhỏ, khoảng 282 triệu đô la và việc tăng đột biến là do xuất khẩu vàng.
Như vậy, muốn đạt được kim ngạch xuất khẩu bằng năm 2008, bốn tháng cuối năm kim ngạch xuất khẩu phải đạt mức 5,7-5,8 tỉ đô la Mỹ/tháng. Bộ Công Thương đang rà soát các nhóm mặt hàng chủ lực để thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu theo hướng tăng lượng và mở rộng thị trường nhằm bù đắp cho việc giảm giá.
Cụ thể, bộ ước tính kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng nông sản, thủy sản trong bốn tháng cuối năm đạt 4,16 tỉ đô la, nâng tổng kim ngạch cả năm lên 12,4 tỉ đô la nhờ vào việc tăng lượng và giá có nhích lên. Nhóm các mặt hàng khoáng sản, nhiên liệu dự kiến đạt thêm 3,13 tỉ đô la (tổng kim ngạch cả năm khoảng 8,7 tỉ đô) và nhóm các mặt hàng công nghiệp chế biến dự kiến đạt 15,5 tỉ đô la (cả năm khoảng 38,9 tỉ đô la) cũng nhờ các lý do tương tự.
Đi vào từng mặt hàng, Bộ Công Thương cho rằng mặt hàng dệt may có thể đóng góp thêm khoảng 3,6 tỉ đô la so với kế hoạch năm nếu khai thác tốt các lợi thế về thị trường và tiềm năng nội tại. Dự báo này được đưa ra trên cơ sở nhu cầu về nhập khẩu hàng dệt may của các quốc gia lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản đang tăng trở lại với các dấu hiệu kinh tế phục hồi.
“Vừa qua một số doanh nghiệp dệt may đã nhận định xu hướng giá nguyên phụ liệu trên thị trường thế giới cuối năm tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên đã nhập khẩu nguyên phụ liệu từ quí 2 năm nay, thời điểm giá thấp. Nhờ đó, doanh nghiệp giảm bớt chi phí đầu vào, có khả năng cạnh tranh về giá so với các đối thủ”, Bộ Công Thương nhận định.
Thêm vào đó bộ cũng cho rằng xu hướng xài hàng may mặc giá rẻ ở các thị trường Mỹ, EU, Nhật do khủng hoảng kinh tế vẫn đang tạo ra những cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam. Với mặt hàng da giày, bộ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng hoạt động sang các thị trường ngoài EU hoặc hợp tác với các nhà sản xuất nhóm sản phẩm thị trường ngách cao cấp ở châu Âu để giảm chi phí sẵn có và tận dụng thêm lợi thế.
Nhưng ông Nguyễn Văn Đạo, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong cuộc họp với lãnh đạo bộ cuối tuần qua tại Hà Nội đã phản biện kế hoạch của bộ. Ông cho rằng với các lợi thế mà ngành dệt may xuất khẩu đang có như xuất khẩu qua các thị trường lớn vẫn tăng trưởng, các đơn hàng đảm bảo đến hết năm và quí 1 năm sau, thì ngành dệt may cũng không thể “gánh” hết chỉ tiêu 9,5 tỉ đô la như kế hoạch.
Ngược với dự báo của Bộ Công Thương, ông Đạo phân tích rằng, tháng xuất khẩu cao nhất năm nay là tháng 7, ngành dệt may xuất đi 900 triệu đô la, các tháng còn lại trung bình cũng chỉ đạt 800 triệu đô la.
Tuy nhiên, những con số này sẽ còn giảm ở những tháng cuối năm nên khó có thể đạt 3,6 tỉ đô la như dự tính vì các đơn hàng xuất đi cuối năm là hàng cho mùa hè năm tới ở các nước nhập khẩu, nên giá thấp. Bangladesh, Trung Quốc cũng đang tích cực thúc đẩy hàng xuất khẩu nên việc đàm phán giữ giá với các doanh nghiêp dệt may là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay.
Ông Huỳnh Minh Huệ, Phó chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam và bà Nguyễn Thị Tâm (Phó tổng giám đốc Tổng công ty Lương thực miền Bắc), cũng nhận định rằng ở nhóm hàng gạo, việc giữ giá cũng là điều cần nhất để đảm bảo hiệu quả xuất khẩu bởi việc tăng khối lượng hàng không phải là vấn đề lớn và cũng không giải quyết được vấn đề gì nếu giá cứ giảm.
Trong bốn tháng còn lại, nếu mỗi tháng doanh nghiệp chỉ cần xuất 400.000 tấn gạo là đủ chỉ tiêu 6 triệu tấn của năm nay.
Hiện nay thị trường gạo cấp thấp đang hạn chế nên muốn tăng khối lượng xuất cũng khó trong khi vụ hè thu lại đang được mùa (chủ yếu là gạo chất lượng thấp). Bên cạnh đó, một số nước xuất khẩu gạo lớn như Thái Lan đang tăng cường bán gạo dự trữ nên việc các đối tác ép giá do cung cao hơn cầu khiến các nhà xuất khẩu gặp khó.
“Xuất bao nhiêu cũng không quan trọng bằng giữ giá”, theo ông Huệ vì có thời điểm gần đây, giá gạo Việt Nam so với giá gạo xuất khẩu Thái Lan thấp hơn 100 đô la Mỹ/tấn. Đây là một thiệt thòi lớn, kéo theo đó là giá đàm phán cho năm tới cũng sẽ bất lợi.
Và một trong những cách để giữ giá là mức giá đàm phán cho các hợp đồng bán gạo cấp Chính phủ phải ở mức hợp lý để hỗ trợ cho các đơn hàng thương mại bởi vì hiện nay 50% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là qua kênh bán này.
Nguồn: TBKTSG
