Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược

CỔNG THÔNG TIN KINH TẾ VIỆT NAM

Tin tức

'Mỗi làng một sản phẩm' gập ghềnh về Việt Nam (16/09)

06/08/2010 - 26 Lượt xem

Nguyên tắc và  kinh nghiệm

Tại buổi tọa đàm ngày 15/9, vị GS người Nhật, nguyên Thị trưởng tỉnh Oita (phía Nam Nhật Bản), đưa ra 3 nguyên tắc và 6 kinh nghiệm mà Nhật đã áp dụng thành công khi triển khai phong trào "Mỗi làng một sản phẩm".

Mới nghe qua 3 nguyên tắc thì thấy rất to tát: địa phương hoá tiến tới toàn cầu; tự chủ tự lập, nỗ lực sáng tạo và phát triển nhân lực. Song, với những dẫn chứng sinh động từ thực tế Oita, đây quả là những bài học sâu sắc đúc kết không chỉ từ thành công mà cả sự thất bại.

Đầu tiên, theo GS Morihiko Hiramatsu, các địa phương cần chọn được sản phẩm có cá tính, đặc biệt nổi trội có tính cạnh tranh nhất mà địa phương khác không có.

"Một sản phẩm thực sự đặc sắc của địa phương tự nó sẽ mang tính toàn cầu", ông nói. Từ đó, chính quyền sẽ hỗ trợ về chính sách, kỹ thuật, vốn nhằm giúp những người tham gia được hưởng lợi ích gia tăng nhiều nhất.

GS Morihiko Hiramatsu dẫn chứng, ở Oita, sản vật đó là nấm hương khô, chanh kabosu, rượu shochu, cá saba ngựa seki... Các sản phẩm này đều có sự phát triển vượt bậc kể từ khi được phát hiện, sản xuất và chế biến một cách tuyệt đối an toàn, ngon hảo hạng.

Hơn nữa, điều mà vị cựu Tỉnh trưởng Oita làm được và nhờ vậy được lòng dân nhất, ấy là khi ông trực tiếp xắn tay lo xúc tiến quảng bá, phát triển kinh doanh cho địa phương mình phụ trách. Không ít lần ông trực tiếp đi thu gom thịt bò trong dân chở lên tận chợ Tokyo bán. Không ít lần ông tự tay mang rượu shochu đi bán, gắp miếng chanh kabosu bỏ vào rượu mời khách.

Hình ảnh một chính trị gia đi tiếp thị sản vật của địa phương mình từ những năm 1980 đã có tác dụng rất lớn. Sản phẩm của Oita nhờ vậy trở nên nổi tiếng, thành thương hiệu có tính toàn cầu, giá trị cao hơn rất nhiều. 

Ông đưa so sánh cực kỳ ấn tượng: Một chiếc Toyota hạng trung có giá 3 triệu yen, chiếc xe nặng 1,5 tấn thì trung bình cứ 100g của chiếc xe này giá 200 yen. Con số này quá “bèo” so với giá trị của nấm: 100g nấm có giá 3.000 yen.

Hay ví dụ khác, rượu gạo shochu đóng chai tại Oita có giá bán 1.200 yen, nếu vào một nhà hàng ở trung tâm thương mại Ginza, nó được đẩy giá lên tới 8.000 yen.

Giá trị gia tăng của các loại nông sản đặc sản từ Oita là vô giá, khiến cho những hãng công nghiệp như Toyota không bao giờ “có cửa” xâm nhập Oita.
Điều đáng nói hơn, bất chấp khủng hoảng kinh tế, hầu hết các sản phẩm nông sản không bị ảnh hưởng nhiều, tất nhiên nguồn thu không lớn nhưng ổn định và đều đặn.

Chính vì vậy, sau khi chương trình triển khai trên quy mô rộng từ năm 1980, đến nay, Oita đã có 336 sản phẩm được lựa chọn vào chương trình, doanh thu lên đến 141 tỷ yen. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp đôi.

Người dân sản xuất rồi tự chế biến, tự đem đi bán mà không phải qua thương lái. Họ được hưởng toàn bộ thành quả chứ không phải chia sẻ lợi nhuận qua khâu trung gian nào.

Ngoài ra, việc phát triển nhân lực cũng rất được chú trọng ở Oita. Hồi còn làm lãnh đạo, ông Morihiko Hiramatsu đã xây dựng 6 trường học để dạy nông dân cách làm ăn. Ông mời đến lớp những người làm thủ công, trồng nấm, nấu rượu... để chia sẻ cho bà con thành công, kể cả những thất bại để cùng tránh.

Mô hình này hiện đã xuất hiện ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Campuchia, Lào, một số nước châu Phi.

Vào Việt Nam không dễ

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hồ Xuân Hùng, người vừa có chuyến khảo sát từ Oita trở về, nói với PV VietNamNet rằng, ông thực sự ấn tượng bởi từng người dân ở đây đều ý thức được phải làm gì cho chính mình. Nhờ vậy, phong trào phát triển làng nghề đã có sức cuốn hút mạnh mẽ và họ thành tâm hưởng ứng.

Đó chính là kinh nghiệm mà Việt Nam áp dụng ngay được.

Nhưng thực tế không dễ như vậy. Trong 6 kinh nghiệm mà GS Morihiko Hiramatsu nhắc đến, vấn đề đầu tiên là thay đổi được nhận thức của người dân thì chính Thứ trưởng Hồ Xuân Hùng cũng thừa nhận là rất khó.

"Việc làm sao để sản phẩm địa phương mang tính toàn cầu, một cách ổn định là trách nhiệm rất cao của từng hộ nông dân, chính quyền, tổ chức xã hội mà Việt Nam còn thiếu. Khi có thương hiệu rồi tự nhiên tiêu chí mỗi làng, mỗi sản phẩm được hình thành", ông nói.

Hơn nữa, để đào tạo được một lao động giỏi cũng mất rất nhiều thời gian. Thậm chí, một thầy một trò mà phải mất mấy chục năm chúng ta mới có nghệ nhân, bởi giỏi nghề không chỉ cần kiến thức mà là năng khiếu. 

Việt Nam cũng thiếu những vị lãnh đạo tỉnh, huyện... có cách hiểu đầy đủ về vai trò của mình, đặc biệt trong việc xúc tiến thương mại. Vì thế mà hiện nay, chúng ta vẫn chỉ xúc tiến được "một nửa", tức là nặng ở sân nhà chứ chưa vươn ra được toàn cầu.

Đến thời điểm này, có thể nói làng nghề Việt Nam đã bước đầu qua được khó khăn. Vị thứ trưởng khẳng định, cả năm 2009, xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp đạt khoảng 15-16 tỷ USD, trong đó sản phẩm làng nghề đạt khoảng 1 tỷ USD.

"Cách đây gần 1 năm chúng tôi phân vân và đáng ngại rằng 5 triệu lao động làng nghề sẽ thất nghiệp. Nhưng đến giờ, đáng ngại ấy đã được giải tỏa. Đó là nhờ 4.000 tỷ đồng Chính phủ hỗ trợ từ gói kích cầu thực sự mang lại hiệu quả và tạo được thị trường cho làng nghề".

Theo Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối (Bộ NN&PTNT), “Mỗi làng có một nghề, mỗi xã sẽ có một làng nghề” là mục tiêu cơ bản của Đề án Chương trình phát triển “Mỗi làng, mỗi nghề” giai đoạn 2006-2015, do Bộ chủ trì. 

Buổi tọa đàm này, theo Thứ trưởng Hùng, sẽ gõ tiếng chuông vào phong trào phát triển làng nghề Việt Nam, nhân đó để các làng nghề áp dụng 3 nguyên tắc và 6 kinh nghiệm mà Nhật Bản đúc kết ra.

Nguồn: vietnamnet